add this

Thursday, April 12, 2018

đêm di tản theo bờ sông Ba

pvp
Tướng Phạm Văn Phú, tự sát khi Cao Nguyên thất thủ


    Tôi còn nghe bàn tán xôn xao đâu đó là: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã có kế hoạch Di Tản Chiến Thuật ra khỏi Cao Nguyên, nên chúng ta bình tĩnh chờ đợi...!"

Trực thăng nhấc mình lên một cách khó nhọc; bên dưới một người phụ nữ đeo tòn ten dưới càng! Khi lấy độ cao lướt qua lùm cây bên kia sông cũng là lúc người phụ nữ buông tay rơi tự do xuống đám rừng!

                 Tỉnh trưởng: Tình hình KonTum vẫn yên tĩnh, chúng ta được tăng cường một Liên Đoàn BĐQ...

đêm bên bờ sông Ba

Trang Y H

Buổi họp cuối cùng!
Ra khỏi tòa hành chánh tỉnh KonTum vào lúc 4 giờ chiều ngày 15 tháng 3 năm 1975. Bên tai tôi vẫn còn nghe văng vẳng lời nói của ông tỉnh trưởng: " Tình hình KonTum vẫn yên tĩnh, chúng ta được tăng cường thêm một Liên Đoàn BĐQ...!" Thành phần tham dự gồm các phòng, ban Tiểu Khu và các đơn vị hành chánh. Mặc dù nghe lời ông tỉnh truởng nói như vậy… khi ra về chúng tôi nhìn nhau không dấu nỗi sự lo âu vu vơ nào đó hiện trên khuôn mặt mỗi người!     Bầu trời KonTum hôm nay toàn màu mây xám yên ắm một cách lạ thường, trông ảm đạm như những ngày mùa hè đỏ lửa cách đây ba năm! Không nghe tiếng máy bay, tiếng đại bác như mọi ngày. Tôi chạy xe ra phi trường đường băng im lìm không có chiếc máy bay nào nằm ở đấy. Người lính gác cổng bồng súng đứng tư lự mắt nhìn về cuối sân bay - nơi đó có vườn "Paradise"! Tôi vòng xe chạy ra đường Nguyễn Huệ ngang qua ngôi nhà Thờ Gỗ thấy cửa đóng im ỉm; tiếp tục chạy ra cầu DakbLa quay qua trường trung học Hoàng Đạo. Phố đã lên đèn, "Chiêu Anh Quán" cuối đường Lê Thánh Tôn dân nhậu lưa thưa. Tôi buồn bã trở về đơn vị!      
6 giờ sáng ngày 16 tháng 3 năm 1975. Người chỉ huy chạy đến cho tôi biết rằng “Tất cả bỏ KonTum đi trong đêm các cây xăng không còn một giọt xăng nào! Anh em tự lo liệu..."! Ông chở tôi về nhà đón vợ con ông, rồi tức tốc chạy ra khỏi tỉnh. Khi xe chạy qua cầu DakbLa tôi quay đầu nhìn lại KonTum lần cuối. Dòng sông DakbLa hiền hòa êm ả với những đám bắp xanh tươi dọc theo bờ sông Phương Hòa - Phương Qúy- đôi mắt tôi cay xè và lòng tôi nặng triũ! (Mặc dù tôi không còn người thân - năm 1972 đã được di tản về làng tạm cư Long Thành, sau đó định cư ở Long Khánh). Phố núi thơ mộng nầy - nơi tôi đã chôn chặt một thời tuổi nhỏ với biết bao thương nhớ: bạn học ngày xưa; bạn chiến đấu và những kỷ niệm tình yêu một thời gắn chặt trong suốt quãng thời gian hai mươi năm! 
    
Pleiku im lìm như một thành phố ma! Nghe nói Bộ chỉ huy quân đoàn rời bỏ Pleiku lúc 9 giờ đêm hôm trước. Nhìn về hướng phi trường Cù Hanh những cột khói bốc cao và những tiếng nổ... hình như không phải tiếng pháo kích của cộng quân - tôi nghĩ vậy...Xe chúng tôi chạy vòng qua rạp hát và rẽ về hướng Phú Bổn, vì chúng tôi đã biết đường QL 19 đã bị chặn mấy tuần lễ trước. Đến Phú Bổn tôi thấy một người Mỹ, có lẽ là cố vấn cùng với những người lính VNCH bên cạnh chiếc trực thăng, họ nói chuyện vui vẻ! Tôi cứ tưởng rằng nơi đây vẫn còn yên tỉnh... Chúng tôi chạy quanh co một lúc là bắt kịp đoàn quân, dân di tản ùn ùn kéo nhau qua đèo. 

Tôi không biết đèo nầy tên gì, chúng tôi vượt đèo nhanh vì xe nhỏ. Qua khỏi đèo chừng 3 hay 4 cây số, tôi thấy địa hình bằng phẳng, chỉ có cỏ tranh và những lùm cây thấp; không thấy hình dạng con đuờng 7B như thế nào! Nhìn ra xa những dãy núi cao nhấp nhô tít tắp chân trời. Hồi còn học sinh tôi nghe thầy giáo giảng về địa lý: "Ở Tuy Hòa có đập nước Đồng Cam do Người Pháp xây dựng đồng thời mở con đường cũng từ Tuy Hòa- Đồng Cam- Cheo Reo, (bây giờ là Tỉnh Phú Bổn) đến PleiKu". Con đường 7B từ năm 1954 đến 1975 không còn sử dụng. Bỏ bê lâu ngày mưa núi xói mòn, cây rừng mọc kín làm mất dạng, những đoạn còn lại thì đá dăm lởm chởm cỏ, gai mọc xen lẫn lúc thấy lúc không nên rất khó đi. Trong khi đó đoàn xe công binh, xe quân đội lớn nhỏ và xe dân chở người, chở vật dụng ước chừng hơn cả ngàn chiếc chưa kể xe Honda gắn máy. Xe lính đi trước, xe dân theo sau chen lấn dàn hàng ngang chạy tìm dấu vết đường cũ mà tiến tới, bóp kèn tin tin, inh ỏi, tạo ra cảnh nghẽn đường chưa từng thấy dưới ánh nắng chói chang của những ngày đầu mùa hè. Mọi người bơ phờ, sợ hãi... người già, phụ nữ, trẻ em - đói, khát kêu khóc!      Nghẽn đường - nhích từng chút, từng chút..., có khi chạy vài trăm mét lại ngừng - một phần thì... lo âu không biết cộng quân có rượt theo hay ra chận đường! Còn nếu có pháo kích thì coi như chết tập thể...! Xe nào hết xăng thì bỏ xe xin quá giang xe khác. Tôi cũng ở trong tình trạng đó...Xe nổ máy nhiều lần hết bình ắc-quy, nếu còn xăng thì hút ra... bán - rồi  bỏ xe. Không đi nhờ xe khác được thì đi bộ. Những cây cầu sắt bắc qua các con suối lâu ngày ván gỗ mục hết còn lại khung sắt hoen rỉ... người đi bộ vin thành cầu đi qua, còn xe thì tìm những chỗ thấp, cũng may bây giờ không phải là mùa mưa. Những chiếc xe Honda- Vespa - Suzuki -Yamaha len lỏi chạy trước, đến khi hết xăng thì chỉ còn cách đẩy nó xuống khe núi! Hàng trăm, hàng ngàn chiếc cứ thế mà vứt - không thương tiếc, mới thấy thấm thía câu nói Bỏ của lấy người! mà không biết có thoát được không? Khi phía trước là núi cao, con đường 7B ở trong mơ, còn phía sau cộng quân sẽ đuổi kịp và tàn sát bất cứ lúc nào! Cũng có người quay ngược trở lại. Nhưng không ai khuyên ai một lời nào. Lý do tại sao trở lại.     

Gần đến Củng Sơn rừng rậm và đèo dốc nhiều. Xe quân đội chạy nhanh bỏ xa xe dân, nhưng bù lại là có đường mòn dễ đi và cứ thế chạy theo. Khi đến một cái dốc cao dài khoảng chừng 100 mét phía bên dưới là thung lũng cây rừng rậm rạp. Xe đi nhiều nên tạo ra một lớp bột đất mịn bụi bay mù trời...Tài xế chạy xe xuống trước còn người thì mặc quần áo nhiều vào rồi lăn hay tuột xuống...cũng có trầy xước nhưng không đến nổi bị thương. Nhìn cảnh nầy tôi nhớ khi đọc Tam Quốc Chí đoạn: " Đặng Ngãi dẫn quân đi đường tắc qua ngã Âm Bình vào đất Ba Thục tiêu diệt ấu chúa Lưu Thiện". Xe chạy cứ chạy còn những người đi bộ ghé vào Củng Sơn tìm mua thức ăn.


************************************************

thieu 

Nguyễn Văn Thiệu: từ ba không đến ba có, tổng tư lệnh mà không biết rút quan ngã nào, tham mưu trưởng Đồng Văn Khuyên, anh của tướng VC Đồng Văn Cống, không ra khỏi phòng lạnh. Ông Thiệu ra lệnh giữ tuyệt đối mật lệnh rút quân. Tướng Phú hỏi: dân và gia đình binh sĩ thì sao? Ông Thiệu trả lời giao cho VC. Tháng sau, chuẫn bị ra đi ông cỏn nói đồng bào hãy tin tường trung tướng Thiệu còn tổng thống Thiệu không cần thiết cho sự an toàn. Mâu Thân, VC đã đánh vào Chợ Lớn, ông không hay biết và ăn Tết ở nhà vợ tại Mỹ Tho. Saigon không ai trông coi, ông Loan ra tay chỉ huy thì ông Thiệu nghi đảo chánh, cho người đi coi hư thực mới về Saigon.


***************************************************************************
Tôi cũng đi theo họ. Đến nơi đã có một số người đến trước. Họ mua gà nấu cháo. Gọi là "Tiểu Khu" nhưng chỉ có vài con đường, nhà cửa lụp xụp như ở miền thôn quê. Được biết từ lâu Củng Sơn bị tách biệt với Tuy Hòa vì đường bộ cộng quân hay chặng đường và cầu cống bị đánh sập...Tôi thấy người dân ở đây chẳng quan tâm gì về chuyện tại sao chúng tôi đến đây, họ vẫn làm việc hằng ngày của họ, tôi thấy họ phơi bánh tráng. Tôi đi lại hỏi mua. Họ nói: "Bánh tráng sắn, không phải gạo, ăn được thì mua!"  Tôi nói: Ăn được! Người phụ nữ lấy một cái bánh còn ướt, nóng, ở trên lò chồng lên cái bánh tráng nướng sẵn và gập lại. Tôi trả tiền quay ra và thấy người con gái mặc quần loe, tóc dài, cười tươi đi vô nhà. Hình như ở đây rất thanh bình thì phải...? 
     
Tôi may mắn được một chiếc xe Land Rover cho quá giang. Chạy quanh co trong rừng chừng hơn một giờ là đến một bãi cát rộng mênh mông với những lùm cây lưa thưa ngang đầu. Tôi nghĩ, chắc đã đến bờ sông Ba. Xe quân đội đứng thành nhiều hàng dọc theo bờ sông có cả gia đình họ, tiếp đến là xe dân. Nhìn bãi đậu xe khổng lồ-thấy phát khiếp!

Ngày và đêm thứ nhất ở bên bờ sông Ba

Những giọt nắng yếu ớt còn đọng lai trên những tàn cây, đàn chim hình như không vội vàn bay về tổ, chắc chúng chờ xem bọn người nầy đến đây phá tan sự yên tĩnh của chúng chăng? Đúng thế! Dòng sông tuy mùa khô cạn nước, lòng sông ở đoạn này vẫn cỏn sâu và rộng chừng 100 mét. Toán công binh bắt đầu làm cầu phao qua sông. Tiếng máy nổ bơm hơi vào những cái phao; những thanh nhôm được kết nối lại; những sợi cáp kéo ngang qua bên kia bờ.  Công việc gấp gáp, ánh đèn từ chiếc xe GMC nổ máy pha sáng trưng, quang cảnh nhộn nhịp như một công trường!

Mọi người đổ xô xuống sông múc nước uống, tắm...Trên bờ những đụn khói bay lên bên cạnh những chiếc xe, họ nấu ăn, nhưng phần lớn ăn mì gói và bánh mì mang theo từ lúc ở nhà. Sau một ngày mệt nhọc họ tìm chỗ ngủ. Họ ngủ trên xe, ngủ dưới gầm xe, ngủ ngay trên cát. Tìm chỗ ngủ cũng vất vả không ít, vì xe đậu lộn xộn không có lối đi. Qúa mệt sau một ngày vượt núi, tôi chui vào một lùm cây và ngủ đến khuya. Có ai đó đạp vào chân tôi, choàng dậy...trong ánh sáng mờ mờ của ánh sao đêm, tôi thấy hai người phụ nữ tay cầm cái bình màu trắng. Tôi hỏi các chị đi lấy nước phải không? Họ nhờ tôi dẫn đi ra sông và các chị cũng cho biết là đoàn người phía sau còn rất đông. 

Đêm đầu tiên tôi ngủ ở bên bờ sông Ba! Đêm rừng nhưng không lạnh, trên trời đầy sao nhưng xem ra chẳng có ngôi sao may mắn nào! Phía xa xa từ hướng Phú Bổn những viên đạn lửa bay lên bầu trời và những tia chớp như sắp có cơn dông. Tôi nghĩ chắc đánh nhau, mà sao chẳng có nghe tiếng máy bay phản lực. Bầu trời vẫn yên lặng-yên lặng đến khó hiểu. Không có tiếng gà gáy. Có tiếng con nít khóc; tiếng vỗ về dỗ dành; tiếng hát ru nhè nhè của người mẹ...oan khốc tội tình gì mà bỏ nhà cửa ra bờ sông Ba mà nằm phơi sương, phơi nắng...? Tôi đưa hai người phụ nữ trở về chỗ của họ. Trời sắp sáng, tôi lần mò ra sông. Toán công binh vẫn miệt mài làm, tôi hy vọng cầu sẽ xong trong ngày hôm nay!


Dap-dong-cam-Phu-Yen-Tours-2
Đồng Cam, Tuy Hòa

Ngày và đêm thứ hai ở bên bờ sông Ba
Trời không sương mù nên những ánh nắng mặt trời rọi xuống dòng nước chảy lờ đờ trong vắt, thấy cát ở bên dưới, tôi xuống rửa mặt và nhìn qua bên kia bờ sông bằng phẳng. Đồng cát trắng phau phau, xa xa là rừng rậm. Mọi người cũng xuống sông làm vệ sinh như tôi, con nít có đứa nhảy xuống tắm trông cũng vui! Nhưng khi mặt trời càng lên cao, cái nắng càng gay gắt... cọng với cát được đun nóng hằng giờ mà chẳng có bóng cây cao che mát. Những lùm cây thấp ngang đầu lưa thưa trụi lá...hình như mùa xuân chưa hề qua đây! Người ta tận dụng tấm poncho, mền, căng ra từ thành xe qua các lùm cây. Còn tiểu và đi tiêu họ giải quyết vấn đề đó ngay tại chỗ. Họ không dám đi xa vì sợ có lệnh di chuyển bất ngờ. Mà họ cũng không dám đi xa, sợ lạc vì bãi đậu xe mênh mông mà không ngay hàng thẳng lối mạnh ai nấy chen lấn dành chỗ ưu tiên. Càng trưa cái nắng cao nguyên mùa khô như thiêu cháy một rừng người và xe cộ giữa hoang mạc. Những người đàn ông vội vã chạy xuống sông lấy nước và hấp tấp trở về lo cho ngươi nhà và bảo vệ chút gia tài: Vàng, tiền mang theo – trộm, cướp là chuyện thường xãy ra trong thời buổi loạn ly...       

Nhiều người say nắng, trúng gió, xây xẩm, ói mửa! Tiếng kêu cạo gió, xoa bóp, chờm nước...inh ỏi! Tiếng trẻ con khác sữa đòi ăn và mồ hôi nhễ nhại. Tội nghiệp những người mẹ quạt không ngưng tay, rồi chính những người mẹ cũng kiệt sức và ngã gục, người cha cũng bơ phờ mệt mỏi. Ở giữa rừng mà không có không khí trong lành để thở...Cát càng nóng càng bốc mùi nước tiểu, phân và thức ăn thừa cộng với mùi xăng dầu, mồ hôi do không được tắm giặt...Không khí đặc quánh, nồng nặc. Gió rừng không thổi hết mùi xú uế. Tôi thấy phía bờ sông giòng xe nhà binh nhúc nhích từng mét. Chắc cầu làm đã xong, trong lòng tôi mừng rỡ. Chạy đến xem xe chạy qua cầu như thế nào? Đến nơi tôi không thấy chiếc cầu đâu cả, nó chìm hẳn xuống khỏi mặt nước chừng nữa mét bởi sức nặng của chiếc xe GMC. Phía trước đầu xe là hai người lính công binh đi hai bên dẫn đường, xe qua thì phía sau cầu nổi lên. Chậm, nhưng rồi cũng qua được phía bên kia! Tôi nghe có tiếng ai nói cứ tiến độ như thế này, thì phải mất ba tháng số xe nầy mới qua hết. Còn cây cầu mong manh này liệu có chịu nổi số lượng xe khổng lồ này hay không? Và, cộng quân không vội vả gì rượt đuổi chúng ta - tự chúng ta đói khát, bịnh hoạn rồi chết!

Tôi còn nghe bàn tán xôn xao đâu đó là: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã có kế hoạch Di Tản Chiến Thuật ra khỏi Cao Nguyên, nên chúng ta bình tĩnh chờ đợi...!" Tôi nghe và tôi cũng tin như thế thật! Bởi vì cả guồng máy chiến tranh hùng hậu mà không đủ sức di tản hết số quân, dân này hay sao?

Năm 1972 bằng đường hàng không, dân hai tỉnh KonTum & PleiKu chuyển đi sạch để lại thành phố cho quân đội chiến đấu và chiến thắng! Tôi nhìn lên bầu trời ánh nắng chói chang, trong vắt không gợn tý mây, không thấy bóng dáng chiếc máy bay nào như mọi ngày. Và, họ cũng như tôi kiên nhẫn chờ đợi ông Tổng Thống Thiệu đến cứu hay một phép mầu nào từ Thượng Đế...      Những đoàn người chạy sau, vừa mới tới tìm lối xuống sông múc nước và cho biết có đánh nhau khi qua đèo Phụng Hoàng hay Tu Na gì đó, Lính BĐQ và dân chết bị thương nhiều, ai chạy thoát được thì đi tiếp tới đây, ai không thoát được thì quay trở lại Cheo Reo. Họ cho biết thêm có người kêu gọi quay về: "Hòa Bình rồi đừng chạy theo bọn Ngụy nữa..." Bây giờ là 5 giờ chiều tin tức xấu cứ tiếp tục lan truyền trong đám người di tản. Đã sợ, giờ càng sợ hơn. Những khuôn mặt buồn thảm hốc hác, bây giờ lại càng lo lắng và xen lẫn thất vọng. Không ai bảo ai những ánh mắt đều nhìn về hướng Phú Bổn, nhưng nào có thấy gì đâu, còn phía Củng Sơn một vài đụn khói bốc lên. Có lẽ là khói bếp...


hinhanhngayquochan3041975023
mạnh ai nấy chạy; "sauve qui peut"

Nắng chiều vẫn còn bịn rịn trên dãy Trường Sơn, không khí không còn nóng hầm hập như buổi trưa, những tấm poncho, mền được tháo xuống trải trên mặt cát. Họ chuẩn bị ăn một chút gì đó qua loa và chờ đêm nay đến phiên xe mình qua sông. Tiếng trẻ con khóc và tiếng ầu ơ của người mẹ nhừa nhựa yếu ớt, có tiếng cầu kinh và cũng có tiếng kêu tên ông Thiệu ra chửi tùm lum...Tôi trở lại lùm cây cũ đêm hôm trước hòng tìm chỗ ngã lưng, chiếc xe Land Rover tôi đi nhờ vẫn còn nằm đó. Lùm cây trơ trọi không còn chiếc lá nào, mùi nước tiểu xông lên nồng nặc, bụng đói cồn cào, hai ngày qua không có hột cơm trong bụng. Tôi quay ra bờ sông và thấy những người lính đang ăn cơm sấy - tôi xin và họ cho tôi một bịch! Đêm nay tôi nằm trên cát, đêm rừng buông xuống thật nhanh, nhìn chùm sao bắc đẩu sáng lung linh, tôi nhớ mẹ tôi ở LK. Mẹ ơi! Mẹ đâu biết rằng đứa con trai độc thân 25 tuổi của mẹ hai đêm nay nằm ở bên bờ sông Ba!

Ngày thứ ba ở bên bờ sống Ba
Mệt, đói! Tôi ngủ vùi, khi giật mình tỉnh dậy xem giờ mới hay đã hơn 2 giờ sáng, nhìn về cầu phao ánh đèn từ chiếc xe GMC vẫn rọi xuống sông, nhưng không thấy chiếc xe nào qua cầu. Hình như cầu hư? Tiếng búa, tiếng va chạm sắt thép dội đi trong đêm thanh vắng...Nhìn về hướng Cheo Reo xa xa thấy những ánh chớp và những âm thanh như tiếng đại bác vọng về. Đơn vị chiến đấu đi theo lệnh di tản có nghĩa là người lính mang theo vợ con. Chỉ có súng cá nhân, gặp cộng quân vướng viú làm sao chiến đấu với hỏa lực địch có súng hạng nặng và xe tăng! Vậy tiếng súng vọng về là của ai? Tôi càng thêm lo lắng...      Buổi sáng ngày thứ ba! Bình minh le lói phía chân trời nhưng không đem lại niềm hy vọng đến cho mọi người đang chực chờ sang sông. Nỗi lo lắng lẫn sợ hãi thật sự căng thẳng trên từng khuôn mặt bơ phờ mệt mỏi do thiếu ăn, thiếu ngủ...Mới 10 giờ sáng nhưng ánh nắng đã gay gắt, cát nóng, mùi xú uế tích tụ những ngày hôm trước xông lên nồng nàn đến ngộp thở...

Người ta xúm lại săn sóc cho người phụ nữ mang thai - "Chị ấy sinh!" -có người nói thế! Và tôi nghĩ: Xưa nay người ta nói: "Chết bờ, chết bụi!" chứ có ai nói: Sanh bờ, sanh bụi đâu? Trời ơi! Sao em bé lại ra đời trong lúc nầy không biết nữa! Dòng sông Ba hiền hòa nhưng cũng oan nghiệt nầy chứng kiến biết bao thảm cảnh...!      Tôi đi ngược ra phía sau để tìm xem trong đêm qua những người chạy xuống may ra có đồng đội hay người quen biết. Trời! nhiều người bị thương: Lính có, dân có! Bộ đêm qua trên đường có đánh nhau hả? Tôi hỏi người mang áo lính rách bươn. Người lính không trả lởi mà nói: "Trong ngày hôm nay không thoát qua khỏi sông Ba thì thế nào Cộng Quân Sư Đoàn 320 đuổi kịp, hoặc nó pháo chúng ta chết hết"!  Đoàn người mới đến sáng nay họ không mấy quan tâm đến cầu phao. Họ kéo nhau đi bọc ra sau bãi xe và xuôi theo bờ sông tìm chỗ cạn để vượt. Ai chờ cứ chờ, ai đi bộ cứ tìm đường mà đi. Tôi cũng đi theo họ. Lúc này đã 3 giờ chiều, đi được chừng một cây số, thì mọi người hốt hoảng bởi những tiếng nổ chát chúa phía bãi xe. Pháo Kích! Pháo Kích! Có người hét lên...Tôi kéo hai đứa bé gia đình đi bên cạnh nằm xuống. Tôi nghĩ cộng quân pháo đuổi theo gây tang thương hoảng loạn chứ chưa chắc đã đến. 

Tôi nghe tiếng trực thăng càng lúc càng gần. Thì ra chiếc trực thăng Hồng Thập Tự hồi sáng nay có bay đến và lượn đi lượn lại bốn năm vòng rồi bay đi luôn! Không biết tại sao bay trở lại? Nó đáp thật nhanh xuống lùm cỏ giữa bãi cát, chong chóng vẫn quay...một số người chạy ào lên! Chiếc trực thăng vội vàn cất cánh nhưng quá nặng cứ chúi chúi hai ba lần, những cái túi xách quăng xuống hết. Trực thăng từ từ nhấc mình lên một cách khó nhọc và người ta thấy bên dưới một người phụ nữ đeo tòn ten dưới càng của nó! Khi lấy độ cao lướt qua lùm cây bên kia sông cũng là lúc người phụ nữ buông tay rơi tự do xuống đám rừng! Có người làm Dấu Thánh! Lạy Chúa tôi...! Người phụ nữ ấy chết hay bị thương trong lúc nầy, dù ai có lòng từ bi đức độ đến mấy cũng đều lực bất tòng tâm, không thể nào cứu được- Phía trước sông Ba phía sau đạn thù! Tôi và hai đứa bé tiếp tục đi, cha mẹ nó mang đồ đạt lặc lè theo sau.

Đi được chừng hai cây số tôi thấy một cái đập nước chắn ngang, thấp và nước chảy xói mòn. Tôi đoán đây có lẽ là cái dạng còn lại của đập Đồng Cam do người Pháp xây đã bỏ lâu năm bị nước xâm thực hư hại. Đoạn sông này cạn, nước sâu khoảng đến đầu gối. Hai bên là những bãi cát chen lẫn những lùm cây, màu cát trắng cọng với nắng chiều quyện vào nhau lung linh tuyệt đẹp!       Đã 5 giờ chiều mọi người dừng quân nằm xuống cát nghỉ ngơi hít thở không khí trong lành thật sự chứ không phải nồng nặc mùi xú uế như chỗ bãi xe. Tôi lang thang ra đồng cát rộng chừng nữa sân bóng đá, nhìn về hướng Tuy Hòa xa xa. Tôi thấy những đốm đen, tưởng là đàn chim buổi chiều bay về tổ. Nhưng không phải! Cái đốm đen ấy càng lúc càng lớn dần... Một... Hai... Ba...  Bốn – năm – sáu - bảy - tám! Đó là những chiếc trực thăng Chinook! Mừng qúa...Tôi hét lên: Có máy bay bà con ơi! Tôi cởi áo lót trắng cầm nơi tay vẫy, vẫy liên tục... Sáu chiếc bay qua trên đầu. Tôi thất vọng! Nhưng đến chiếc thứ 7 & 8 thì quay trở lại và đáp xuống. Lúc này bà con túa ra ùa lên nêm chặc người và người trên hai chiếc Chinook. Bây giờ tôi mới hiểu ra, chính chiếc trực thăng Hồng Thập Tự lúc sáng bay đến thị sát và đã can thiệp để có những chuyến cứu vớt nhân đạo nầy!

Đêm nay và ngày mai...Đoàn quân di tản chiến thuật chắc chắn sẽ đối diện với Sư Đoàn 320 thiện chiến của cộng quân. Và tôi đã khóc.
[Tôi đã đi trên con đường 7B]



Cây Bun Tháng Ba
Trang Y H


Nga tay hng git sương ngun
gom v rưới mát cây bun tháng ba
bun tháng ba đã tr hoa
bên đường hoa n tháng ba não n

xương khô dưới lá ê
li ru xác lá v v đêm hoang
gi cho anh mt cung đàn
đ anh nghe li muôn vàn nh thương

còn trong em mt đon trường
ngày nao vĩnh bit su vương mt m
em còn sng trong mơ
cành hoa rng ci trơ trơ ti đi

dm ngàn máu đ git rơi
rng anh nm li gia tri em mang
quân đi tiếp bước hàng hàng
trước sau đn réo điêu tàn là đây

tháng ba ngi vi c cây
nén nhang lan ta hn vây ly hn
anh ơi ch chp di khôn
luân hi xe y vn vn vã xoay
Tháng ba di tản.


Saturday, April 7, 2018

diệt chủng Ukraine 1932


See the source image
Ukraine 1932, tranh Nina Marchenco
diệt chủng Ukraine 1932

Serhy Yekelchyk, ttt dịch

Sau thì khác, chống đối, nhưng xưa kia, 1932, Lev Kopelev đã cùng đoàn tự nguyện từ Nga xuống lùng khắp vùng quê Ukraine để cùng nhóm nằm vùng sách hại hăm dọa nông dân, kẻ thù của Soviet. Hồi ký của ông cho biết năm nầy đánh dấu cao điểm của vụ thu vét lúa gạo bạo hành nhất, tiếp theo quyết định của Staline tập thể hóa nông nghiệp. Ông nói: “chúng tôi thực hiện sự tất yếu lịch sử”. Những chữ nầy bây giờ rất quen thuộc đối với các nhà nghiên cứu diệt chủng.

Holodomor (nạn đói Ukraine 1932, 1933) là một trong những tội ác lớn nhất của Staline mà Tây Phương* ít chú ý. Cuốn sách chúng tôi có trên tay Red Famine sẽ chỉ rõ tội ác chống nhân loại đã bị dấu nhẹm khá lâu. Tác giả Ann Applebaum đã đúc kết cuộc nghiên cứu 3 thập niên khổ nạn nầy thành đôi dòng ngắn, tiện việc ghi vào bia đá hay bia miệng:

Trận đói nầy không phải vì nguyên do mất mùa hay thời tiết khắc nghiệt, cũng không do sự sai lầm của các kế hoạch gia Nga. Chính đó là một cuộc sát hại tập thể nông dân do chính quyền Sô viết điều khiển có kế hoạch.
Các vùng thóc lúa sản xuất nhiều vẫn bị chung số phận cả nước; điều nầy minh chứng nhà nước Xô Viết chủ trương đè bẹp khắp nơi việc nông dân chống đối tập thể hóa và trưng thu nông phẩm.


vùng quê thuở xưa ở Ukraine
Tuy nhiên mùa thu 1932, bất thần Staline đưa ra những chính sách cay nghiệt áp dụng cho Ukraine. Thay vì giảm quota trưng thu, Staline còn kết tội đảng CS địa phương hèn nhát do kẻ thù dật dây. Một số biện pháp vô cùng cứng rắn như là: đóng cửa biên giới, bao vây cô lập các cộng đồng nào không đạt “chỉ tiêu” và phạt các làng nạp trễ bằng cách tịch thu thực phẩm. Đường lối chính thức của Ukraine đầy tính chất sát nhân đưa đến 3,9 triệu người chết trực tiếp và 600 ngàn trẻ chết lúc sinh.

Red Famine không những chỉ đưa ra các con số thống kê và các biên niên thư mục, tác giả còn ghi lại tiếng nói của những kẻ sống sót làm độc giả sửng sốt. Một người còn nhớ xác bà mẹ căn phồng như một chai nước suối. Một người khác thấy tim của một bé gái tong teo đang đập dưới lớp da nhăng nhíu. Lắm người khác lắc đầu không tìm ra chữ để diễn tả các cuộc hành quyết tập thể kẻ lấy trộm thực phẩm hay ăn xác chết.

Tiền lệ ép chết đói hàng loạt thành phần chống đối trong những năm 1917-20 thời Lenine dạy Staline tầm quan trọng của việc xóa bỏ tinh thần quốc gia Ukraine bằng cách thành lập một cộng hòa soviet và điều khiển văn hóa Ukraine trong những năm 1920. Nhưng qua thập niên mới, Staline tin tưởng cần thiết phải tấn công các nhà ái quốc UIkraine thay vì ép họ vô đường lối mới.


Image result for ukraine

Trong bối cảnh nầy việc sát hại các nhà văn hóa cùng với nạn đói chỉ là những việc riêng trong một kế hoạch rộng lớn nhằm tiêu diệt quốc gia Ukraine. Ý kiến nầy dựa vào các bức thư rợn gáy của chính Staline về điều gọi là sự xâm nhập vào đảng CS của thành quốc gia; nhất là câu: “chúng ta có thể mất Ukraine”. Tác giả cũng đã tìm thấy những công văn mật của đảng CS bài trừ văn hóa xứ nầy. Applebaum không chút nghi ngờ trận chết đói nầy là lưỡi dao bén đắc dụng cho Xô viết giết sạch dân thiểu số ở vùng quê gồm người Nga, Ba Lan, Do Thái và Đức.

Raphael Lemkin, người đưa ra quan niệm ‘diệt chủng’ tin tưởng rằng Ukraine dưới thời Staline là một ví dụ cổ điển về sự hủy diệt một nền văn hóa, một quốc gia. Tác giả đồng ý với luật gia Do Thái Ba Lan nầy, đồng thời than phiền rằng luật quốc tế hiện nay không công nhận trận đói giết người Holomodor là một sự diệt chủng. Theo bà chính phủ hiện nay của Ukraine cần vận động thế giới biết rõ vụ nầy, như một trong những phương cách chính để xác định sự cá biệt quốc gia. Dân chúng Ukraine mong muốn Tây phương* chú tâm đến thảm cảnh lịch sử nầy.

(theo bản tiếng Anh: Beating beneath the Skin, TLS London)
xin đọc thêm: Staline starved populations to death


Image result for Ukraine Forced Famine
trẻ em Ukraine 1932

A-Celebration-of-Women-Feature-Banner-e1352628808407 (1) 512


*Ghi chú về danh từ Tây Phương:
 Đến năm 285, đế quốc La Mã đã quá rộng; vua Diocletian phải giao một nửa cho người bạn, đồng thời là phụ tá, Augustus và ông đã chia thành Western Empire với thủ phủ Rome; và Eastern Empire với thủ phủ Byzantium (sau thành Constantinople, Istambul ngày nay). Thiết nghĩ danh từ Tây Phương từ đấy mà ra để chỉ các nước trong đế quốc miền tây (đa số ở Âu Châu, Anh Pháp Đức ... cùng Mỹ Châu dưới ảnh hưởng Anglo Saxon và Hispanic. Hai vùng đế quốc có hai giáo hội Thiên Chúa không ưa thích nhau đến mức cay nghiệt; thánh chiến thứ sáu thay vì đến Do Thái đánh Muslim đã từ Rome qua Constantinople tác quái và điều nầy xem như vết thương đưa đến việc đế quốc Muslim Ottoman diệt trừ La Mã. Xung đột đông tây được báo chí mượn danh từ để chỉ chiến tranh lạnh. Nga là East; khối tư bản là West. Tình cờ có sự khác biệt đông tây trong phạm vi Âu Châu, Tây Âu tư bản và Đông Âu CS.

Image result for east weat roman empires Nhưng về lịch sử và triết học, Đông Phương có nghĩa chính là nền văn minh Ấn Hoa và Á Đông, phân biệt với nền văn hóa tây phương La Hy. Văn hóa mác xít thuộc vùng Tây; sinh ra bởi người Tây Phương, lớn lên trong khung cảnh tây phương. Virgil Gheorghiu, tác giả Giờ Thứ 25, lưu ý người đọc rằng Nga Sô không phải là Đông Phương như ông đã viết: khi tàn lụi suy nát, Tây Phương sẽ được Đông Phương cứu giúp với liều thuốc trí huệ và hiền triết.
Tây phương trong bài nhằm chỉ các nước tư bản Âu Mỹ khác biệt, một thời hay hiện nay vẫn còn, chống đối ý thức hệ phi nhân cầm đầu bởi Sô Viết.




dân ca Ukraine


Friday, March 30, 2018

khóc muộn 60 năm



 khóc muộn * Tôn Tht Tu
Ông bạn cùng tuổi của tôi được một bạn khác làm sống lại thuở thiếu thời, ngồi với mẹ và chị tụng kinh trong bầu không khí gia đình vô cùng êm ấm. Tôi chợt nhớ lại chừng cùng thời gian ấy, tôi cũng tụng kinh trong một bầu không khí khác tuy vẫn được gọi là dưới ánh đạo vàng. Ông thường gởi cho nhiều người triết lý Phật và nhất là nhấn mạnh buông bỏ, một nội dung đầu môi, ghi khắp nơi trong lối chữ lăng quăng và trong chừng vài trăm email đã nhận; một âm mưu tuyên truyền xoa dịu.

Tôi tụng kinh cả sáng lẫn tối, đánh chuông hai buổi, cào lá phơi khô nấu cơm cho mấy vị nửa nửa tỳ kheo trong đó có ông Mãn Giác. Tôi không có duyên để ngộ cái chi và nhất là không có chi để buông bỏ, thành thử những lời khuyên buông bỏ chỉ ghi nhận dùng sau.

Nói về chuyện gia đình đóng góp nhiều ít cho việc chùa là điều không đáng làm; ngay như chị (Như?) Lý con hay cháu nội của ông Thái Quang Toản không muốn nhắc đến công trình của ông nầy 100% làm chùa Quy Thiện, ngôi chùa theo tôi đẹp nhất, rộng rãi mát mẻ không cổ điển như Tây Thiên, có cả một vườn sim trái vừa hoang dại vừa thuần hóa. Tôi gặp chị ở Orange County. Thế nhưng, xin nói gia đình tôi đã góp sức rất nhiều cho chùa Thiên Minh, chính tượng Di Đà bằng gỗ “to bằng trời” đối với tôi, nay thì nhỏ chỉ cao 3 m, do chị mẹ tôi đi lùng khắp vùng sơn cước tìm được ròn một cây mít rất to mua về làm tượng, trả công thợ chạm, kể luôn ba tháng ông trai giới, gây nội lực chống với quỷ phá nhà chay. Chùa chỉ có tượng đứng nầy và một tượng ngồi cao chưa được một mét theo lối Thái Lan do ông Tôn Thất Hối, con của nhiếp chánh vương Tôn Thất Hân, đưa tới.

Lại nói lòng vòng cả quên. 2003 đến thăm chùa, tôi không được thầy mới tiếp vì ăn mặc tồi tàn. Tôi khá sân si và thách đố với ông sư nhỏ hơn có biết nơi ngón tay trỏ chỉ xuống đất của tượng gỗ nầy có một dấu cưa rất cạn. Ông cho tôi điên nhưng lòng từ bi (?) của ông đã khiến ông cùng tôi vô xem thì có thật. Dấu cưa nầy cốt ý để xem tượng đồng hay gỗ; nếu đồng thì đã tiêu tùng theo tuần lễ đồng của Việt Minh 1945, cùng với các bộ lư, nồi đồng...

Khi cha tôi còn sống lên chùa thì thầy trụ trì khi mô cũng “ông tham” và tôi được ngồi bên cạnh ăn cơm chay. Khi hồi cư, nhà cháy, của cải trước đó đã cho tuần lễ vàng, tuần lễ đồng, kho gạo đồng tâm, cha tôi chết, tôi phải ở tạm trong chùa, lúc ấy pháp chủ Mãn Giác còn gọi là chú Sung (lên chức từ điệu Sung). Bây giờ mới hiểu thành ngữ “xương đồng da sắt” chính là tôi, ngủ cả năm trên bộ ngựa, không một mảnh chiếu, không mền cho đến khi dì tôi cho cái mền lính Tây cũ có chữ US Army (Mỹ viện trợ quân sự). Ngày ngày tôi phải đi kiếm củi hay ra giếng xa đứng múc nước cho O Khóa gánh về, bưng nước cho thầy rửa mặt. Nhà thờ bên ngoại cũng tiêu ma nên cậu tôi thờ ôn mệ trên chùa. Một lần gia đình cậu từ Vy Dạ lên kỵ mẹ tức là bà ngoại tôi; cậu mợ không ư hử một tiếng với tôi và tôi phải giữ bản doanh nhà bếp, không dám lên lạy bà ngoại, trong khi trước chiến tranh cha tôi cúng kỵ nhạc gia (mẹ của cậu)  rềnh rang, có rước thầy, vàng bạc, vô chay ra mặn.

Trong bữa ăn cơm cúng, cậu tôi ngồi ở chỗ cũ của cha tôi, bên cạnh là hai đứa con trai. Tôi phải đứng sau lưng cầm quạt, quạt cho thầy và cậu mợ, mắt nhìn thèm khát những món ăn trên những chén dĩa kiểu tây mà cha tôi đã mua của mấy ông tây bà đầm về nước rồi đem cúng cho chùa. Tôi mong có bữa cơm thừa. Nhưng chiều ấy tôi vẫn theo khẩu phần cố hữu là hai chén cơm úp một, còn tương thì cả mấy lu ngoài sân, húp hay chan như canh cũng được.

Tôi học i tờ, tờ i ti bên Chùa Báo Quốc tại phòng trường Nam Giao mượn, năm sau cả hai lớp tư năm đều dời lên gần Từ Đàm. Một mùa hè, gia đình Phật Tử cắm trại tại đây, tôi mới biết chùa rất rộng, lều trại đã choáng chỗ các cây nhỏ, vườn chùa chạy xuống thấp đến con đường có nhà của (Nhã Ca) Trần Thị Thu Vân; từ Thiên Minh qua đó mấy bước. Tôi thấy có mấy gánh đậu hủ, những chén đậu hủ và đường muối hấp dẫn quá.

Tôi chạy về chùa, lẻn lên nhà chính tới cái chén thầy để tiền xu cho ăn mày, ăn cắp tiền qua xơi một chén đậu hủ cho thỏa giấc mơ làm con bà chủ bán kẹo, ăn kẹo trừ cơm.

Thầy cho mấy bạt tai tím mặt. Chuyện nhỏ mà, tôi không khóc.

Sáu chục năm sau tôi mới khóc. Tôi đã khóc khi lơ lửng không biết chỗ mô trên chuyến bay về. Ra tiễn vợ chồng tôi, một người bà con cho một số kinh sách mà chúng ta thấy bừa bãi ở các chùa, ấn tống cầu phước, hồi hướng công đức…

Tôi đọc một cuốn gì đó tôi quên tên. Trong đó Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật có lời nguyện làm sao khi thấy kẻ đói khổ mà làm chuyện ác thì Ngài cho ăn no đủ rồi mới giảng kinh kệ.

Tôi khóc nước mắt đầm đìa, nhà tôi không thấy vì ngủ ngon. Tôi không khóc vì mấy ngón tay thầy xỉa vào mặt. Khóc vì hơn nửa đời người mất đi bài học. Giá như lúc ấy thầy là Dược Sư, thầy đã cho thằng ăn mày nầy, thằng ăn mày hầu hạ thầy, chút tiền ăn thêm chén đậu hủ cho đã thèm rồi dạy rằng ăn cắp là điều xấu. Muộn đến 60 năm nay mới khóc vì gần cả đời người không học được sự thâm sâu huyền diệu của đạo, có ngay trong chén đậu hủ, trong vũng nước bùn lỗ chân trâu.-



buồn vô hậu
tôn tht tu

Nơi tôi  chiu nay mưa như Huế
khí hu khô nên không khn kh như ngoài kia.
Hơn thế na
cơm ngày ba ba tm ra hai ln
có cái áo dày hơn bao b
mđồng thôi cũng đủ m qua mùa.
Kinh Di Đà vn còn như xưa nơi Thun Hóa
Như th ngã văn nht thi Pht ti Xá V quc *
Pht nói gì nghe l quá đi
x ca Phđất bng như rung lúa
nhà bên nhà gm ph màn hoa
người quên đói vì theo hương ca gió
ca không khóa.
K Pht quđộ thượng vô ác đạo chi danh
hà hung hu thit.**

Mưa như mưa chiu kia ngoài x Huế.
Kinh Di Đà lôi ra đọ quán bánh bèo
Nếu trn gian không đem tin mua súng đạn
thì sá gì nhà gm vi châu sa,
trường tr rng nhà thương thơm hơn mít.
Nhưng thy Pht là tôi bun vô hu
Pht sinh ra nơi chn ác ôn
Chúa hin thân nơi người xem nhau thua con chó.
i mươi, chiu nay bun vô hu,
Bun vô hu nên để lng bài thơ.



* Tôi nghe như vầy, một thời Phật tại nước Xá Vệ...
** Nơi xứ Phật, không có danh tự chỉ tội ác, huống là tội tác



Monday, March 26, 2018

ngôn ngữ saigon xưa...




những chữ vay mượn

Nguyễn Ngọc Chính

Có thể nói, bất kỳ một ngôn ngữ trên trái đất này cũng đều trải qua hình thức vay mượn từ các ngôn ngữ khác. Ảnh hưởng về văn hóa là một trong những tác động chính trong việc vay mượn về ngôn ngữ. Ngoài ra, còn phải kể đến các yếu tố khác như địa lý, lịch sử, chính trị và xã hội trong việc hình thành ngôn ngữ vay mượn.

Miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng vốn là một “melting pot”, dễ dàng hòa nhập với các nền văn hóa khác từ tiếng Tàu, tiếng Pháp và cuối cùng là tiếng Anh. Như vậy, Việt Nam đã trải qua ba thời kỳ ảnh hưởng, lần lượt theo thứ tự thời gian là Tàu, rồi đến Pháp và cuối cùng là Mỹ trong những năm chiến tranh gần đây nhất.

1
Trước hết, xin được bàn về ảnh hưởng của Trung Hoa mà ta thường gọi nôm na là Tàu cùng những biến thể như Người Tàu, Ba Tàu, Các Chú, Khách Trú và Chệt hoặc Chệc. Gia Định Báo (số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/2/1870) giải thích:
“…An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v...  Ba-Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên,  Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần dà Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu...”.
“…Kêu các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy...”.
“…Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc ...”


Cách giải thích thuật ngữ nói trên của Gia Định Báo từ thế kỷ thứ 19 được coi là tạm ổn vì đây là một trong những tài liệu xưa có xuất xứ từ miền Nam. Theo Lê ngọc Trụ trong Tầm nguyên Tự điển Việt Namchệc hay chệt là tiếng Tiều gọi chữ thúc, nghĩa là “em trai của cha”. Người bình dân gọi Chệc để chỉ chung người Hoa.
Người Quảng Đông cho là gọi như thế có ý miệt thị, người Triều Châu trái lại, chấp nhận vì họ được tôn là chú. Ở miền Nam, “các chú Quảng” làm ăn buôn bán khá hơn “các chú chệc” người Tiều lam lũ trong nghề làm rẫy, tằn tiện nên không biết có phải vì vậy mới có câu: Quảng Đông ăn cá bỏ đầu / Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu!

Người Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá. Họ nói món cháo cá Tiều khi ăn có vị ngọt đặc biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài, giữ lại nguyên xi vảy, đầu và cả ruột! Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những món cá chim hấp, bò viên, tôm viên, ruột heo nấu cải chua... và nhất là món hủ tiếu Tiều Châu.
Người ta còn dùng các chữ như Khựa, Xẩm, Chú Ba… để chỉ người Tàu, cũng với hàm ý miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, có sự phân biệt rõ ràng trong cách gọi: phụ nữ Tàu được gọi là thím xẩm còn nam giới thì lại là chú ba.

Chợ Lớn mùa Trung Thu (trước75)

Năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm của nền Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) đã có một quyết định khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều phải nhập quốc tịch Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền Nam sau thời Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy, chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền lợi của người Hoa.
Đạo luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn… được chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành vào tháng 9/1956. Đạo luật này đã làm xáo trộn kinh tế trong nước nhưng đã có tác động mạnh đến nền kỷ nghệ thương mải của người Việt vào thời kỳ đó. Đa số người Hoa đã nhập tịch Việt, tính đến năm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở miền Nam chỉ còn khoảng 2.000 người giữ lại Hoa tịch.
Người Tàu kiểm soát hầu hết các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành kỹ nghệ thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Cũng vì thế, ở Sài Gòn có câu mỉa mai: “Sống phá rối thị trường, chết chật đường chật xá” để ám chỉ người Tàu khi còn sống lũng đoạn nền kinh tế và đến lúc chết lại tổ chức những đám ma một cách rình rang.

Cũng như người Tàu ở Hongkong và Macao, người Tàu ở miền Nam đa số nói tiếng Quảng Đông (Cantonese) chứ không nói tiếng Quan Thoại (Mandarin) mà ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài Gòn xưa vay mượn từ tiếng Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới xử dụng.

Người Sài Gòn thường ví những người “ăn nói không đâu vào đâu” là “nói hoảng, nói tiều” thực ra là “nói tiếng Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều này cho thấy tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền Nam trước năm 1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người Tàu có đến 5 nhóm Hoa kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền Nam: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người Hẹ).


Trong lĩnh vực ăn uống của Sài Gòn xưa, ảnh hưởng của người Tàu gốc Quảng Đông rất mạnh mẽ. Người mình nói: “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật, đi xe Mỹ”. Bên Tàu lại ví von: “Thực tại Quảng Châu, y tại Hàng Châu, thú tại Tô Châu, tử tại Liễu Châu” (Cơm ngon ăn tại Quảng Châu, áo đẹp may vải Hàng Châu, vợ xinh cưới ở Tô Châu, hòm chết chôn không bao giờ mục ở Liễu Châu ). Quảng Châu chính là thủ phủ của tỉnh Quảng Đông.


Kết hợp ý nghĩa của hai câu nói Việt-Trung ở trên ta có thể kết luận: ăn uống theo người Tàu gốc Quảng Đông là hết xảy hay số dzách (số một), những từ ngữ đã quá phổ biến trong xã hội miền Nam. Về sau, vào thời chiến tranh Việt Nam, “số dzách” được cải biên theo kiểu Mỹ thành “nâm-bờ oăn” (number one)! Hành trình của ngôn ngữ xem ra rất thú vị.
Nói cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu lầu, cao lâu của người Tàu gốc Quảng Đông, ở Sàigòn Chợ lớn cũng có lai rai một số tiệm Tàu khác như tiệm Hủ tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới, Cơm Gà Hải Nam ở Chợ An Đông hay đường Tôn Thọ Tường.


Theo Bình-nguyên Lộc (1), thời tiền chiến trước 1945, các phổ ky trong tiệm Tàu còn có kiểu kêu vào bếp những món ăn thực khách gọi y như người ta gọi “lô-tô” (bingo), dĩ nhiên bằng tiếng Quảng Đông:
- Bàn số 3, bên Đông, bà lùn, cà phê ít sữa nhiều!
- Bàn số 4, bên Đông, hủ tíu không giá.
- Bàn số 1, bên Tây, thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ.
- Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to.
Chủ tiệm thường biết rõ tính nết và sở thích ăn uống của mỗi khách quen, nên họ thường đặt cho mỗi người một cái tên thuộc loại… “hỗn danh”. Khi khách ăn xong lại quầy trả tiền thì phổ ky rao những câu hóm hỉnh bằng tiếng Quảng Đông, chẳng hạn như:
- Ông đầu hói mang khăn rằn, một đồng hai cắc
- Bà hai mập, ba đồng sáu cắc
- Ông chủ ốm nón nỉ, tám đồng tư, hai bánh bao mang về.


Nổi tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng Khánh, Arc-en-ciel (sau này đổi tên là Thiên Hồng), Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á Đông, Đại La Thiên, Triều Châu... Tại đây còn phục vụ loại “ăn chơi” theo cung cách nhất dạ đế vương. Quả thật người viết bài này chưa bao giờ được “làm vua một đêm” nên đoán trong những bữa tiệc như thế phải có mỹ nữ hầu tửu, thực đơn chắc chắn phải có nhiều món huyền thoại danh bất hư truyền về cái chất bổ dương khích dục đi đôi với các thứ rượu quí như whisky, cognac và Mao Đài tửu (Mao Đài hoàn toàn không có liên quan gì đến Mao Xếnh Xáng dù ông có dùng rượu này để tiếp đãi các nguyên thủ quốc gia).
Cơm Tàu thường được để trong những cái thố nhỏ nên được gọi là cơm thố, chỉ là cơm trắng dùng chung với các món ăn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ hấp cách thủy để cho chín gạo. Thông thường một người ăn chừng một hoặc hai thố là no. Có người lại ca tụng ăn cơm thố chỉ cần chan chút hắc xì dầu (nước tương đen) pha với dấm Tiều thêm chút ớt là đã thấy ngon rồi.


Nghĩ lại cũng đúng nhưng nếu ăn kiểu này thì những tiệm nổi tiếng như Siu Siu bên hông chợ An Đông hay Siu Siu ở đầu hẻm Nguyễn Duy Dương (hình như ở số nhà 61) chắc đã dẹp tiệm từ lâu rồi! Hình dưới đây là những thố cơm chụp tạiQuán Chuyên Ký trong khu Chợ Cũ đường Tôn Thất Đạm. (Những thố cơm ngày xưa nhỏ hơn nhiều, ngày nay tiệm dùng những cái thố quá lớn, không lẽ bao tử của thực khách ngày nay lớn hơn ngày xưa?).

Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều người rất khoái cơm chiên nhưng ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là món tổng hợp các thức ăn dư thừa được chế biến lại. Này nhé, cơm vốn là “cơm nguội” nấu dư từ hôm trước, các tứ them vào như jambon, trứng tráng, đậu Hòa lan, hành lá... còn dư được xắt lát rồi trộn với cơm mà chiên lên!

Cũng thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo (bánh bao). Bạn không tin ư? Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xưởng và trứng (sau này được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cút lan truyền khắp Sài Gòn, nhà nhà nuôi cút, người người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao được làm bằng bột mì, sau khi hấp chín bột nở phình ra trông thật hấp dẫn.

Có người bảo cơm chiên Dương Châu và bánh bao thể hiện tính tằn tiện và tiết kiệm của người Tàu, không bỏ phí thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các loại sơn hào hải vị như bào ngư, vi cá, yến sào… đều đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn.

Các tiệm “cà phê hủ tiếu” của Tàu lan rộng ra nhiều nơi chứ không riêng gì trong Chợ Lớn. Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu cũng thấy những xe mì, xe hủ tiếu, chỉ nhìn cách trang trí cũng có thể biết được chủ nhân là người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với những chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là những tấm kính tráng thủy có vẽ hình các nhân vật như Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi, Triệu Tử Long… trong truyện Tam Quốc.

Điểm tâm thì có mì, hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại… Khách thường gọi một ly xây chừng, đó là một ly cà phê đen nhỏ hay tài phế (cà phê đen lớn). Cà phê ngày xưa còn có tên “cá phé vớ (dzớ)”, pha bằng chiếc vợt vải nên còn được gọi là “cà phê vợt” tựa như chiếc vớ (bít tất). Cà phê đựng trong “dzớ” phải được đun nóng trong siêu nên còn có tên là “cà phê kho”, có điều “kho” nước đầu thì có mùi cà phê nhưng những nước sau có vị như… thuốc bắc.

Sang hơn thì gọi phé nại (cà phê sữa) hoặc bạt sửu (nhiều sữa nhưng ít cà phê) với sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ (2) hoặc Con Chim (3). Có người lại dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy (người miền Bắc gọi là quẩy) nhúng vào cà phê để ăn thay cho các món điểm tâm đắt tiền.
Người bình dân còn có lối uống cà phê trên đĩa. Mỗi tách cà phê thường được để trên một chiếc đĩa nhỏ, khách “sành điệu” đổ cà phê ra đĩa, đốt điếu thuốc Melia chờ cà phê nguội rồi cầm đĩa lên… húp. Bình-nguyên Lộc trong Hồn Ma Cũ mô tả cách uống cà phê của người xưa: “…Người cha đứa bé rót cà phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà uống”. Đây là cách uống của một số người Sài Gòn vào những thập niên 50-60, đa số họ là những người lớn tuổi, “hoài cổ” nên vẫn duy trì cách uống đặc biệt của Sài Gòn xưa.

Vào một quán nước bình dân trong Chợ Lớn ta có thể gọi một ly suỵt xủi và người hầu bàn đem ra một ly đá chanh mát lạnh. Có người gọi nước đá chanh là “bất hiếu tử” vì dám cả gan “đánh cha” nhưng nói lái lại là… đá chanh! Tại các tiệm “cà phê hủ tiếu” luôn luôn có bình trà để khách có thể nhâm nhi nhậm xà (uống trà) trước khi gọi phổ ky đến để thảy xu (tính tiền). (Nhậm xà còn có nghĩa là tiền hối lộ, tiền trà nước). Người sành điệu còn “xổ” một tràng “broken Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ tố?” (Hết thảy bao nhiêu tiền?).

Những từ ngữ vay mượn của người Tầu dùng lâu hóa quen nên có nhiều người không ngờ mình đã xử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng hạn như ta thường lì xì cho con cháu vào dịp Tết hoặc lì xì cho thầy chú (cảnh sát) để tránh phiền nhiễu, cũng là một hình thức hối lộ.

Lạp xưởng là một món ăn có nguồn gốc từ bên Tàu, tiếng Quảng Châu là lạp trường: ngày lễ Tất niên và ruột heo khô. Cũng vì thế vào dịp giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày la liệt các loại lạp xưởng, nào là lạp xưởng mai quế lộ, lạp xưởng khô, lạp xưởng tươi…
Chế biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm từ thịt heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc nâu sậm vì chắc hẳn có thêm chút bột màu.
Lạp xưởng ở Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món bánh pía, một món đặc biệt của người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da, thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu theo kiểu Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy. Đây là loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt mỡ.


Bánh pía do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang tính chất thủ công và  cho nhu cầu của từng gia đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ ngoài làm bằng bột mì có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dày thường để in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không có lòng đỏ trứng muối và các loại thành phần khác như ngày nay.
Do thị hiếu của người tiêu dùng mà các lò bánh mới thêm các thành phần hương liệu khác như sầu riêng, khoai môn, lòng đỏ trứng muối... Tại Sóc Trăng hiện có gần 50 lò chuyên sản xuất bánh pía. Tuy nhiên, số lò bánh và cửa hàng buôn bán tập trung đông nhất tại thị tứ Vũng Thơm (xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) nơi được xem là khởi thủy của làng nghề bánh pía.

Vịt quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là những món nổi tiếng của Tàu. Dăc biệt của vịt quay là da vịt mỏng, giòn, màu vàng sậm. Tại miền Nam, vịt quay và thịt heo quay cũng được người Quảng Đông đưa vào thực đơn. Bí quyết gia truyền của các món này là ướp ngũ vị hương rồi quay sao cho da giòn tan trong khi phần thịt vừa mềm lại vừa thơm.
Vịt quay hoặc heo quay theo đúng kiểu Tàu là phải ăn với bánh bao chay (không nhân) nhưng người Việt cũng chế thêm món bánh hỏi thịt quay ăn với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp với khẩu vị. Ngày xưa, trong Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có khu vực đường Tôn Thọ Tường, ở Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm heo quay của người Tàu. Chuyện kể có một ông cà lăm đi mua thịt quay, khi ông lắp bắp: “Bán… cho tôi… 20 đồng… thịt quay…” thì Chú Ba với sành nghề chặt thịt cũng vừa chặt xong đúng 20 đồng!

Hết “ăn” giờ lại sang đến “chơi” trong ngôn ngữ vay mượn của người Tàu. Chuyện cờ bạc trong ngôn từ của người Sài Gòn xưa đã xuất hiện không ít những từ ngữ từ tiếng Tàu. Tài Xỉu (phiên âm từ tiếng Tàu có nghĩa là Đại – Tiểu) là trò chơi dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1 cái đĩa, 1 cái bát và 3 hạt xí ngầu cũng có thể lập sòng tài xỉu nên còn có tên là xóc đĩa.

Hột xí ngầu có sáu mặt, mỗi mặt có từ một đến sáu chấm, tương đương từ một đến sáu điểm. Khi ráp sòng, người ta để cả ba hột lên chiếc đĩa sứ, chụp bát lên trên rồi lắc. Tổng số điểm của ba hột từ mười trở xuống gọi là xỉu, trên con số mười là tài. Sau khi chủ sòng lắc đĩa, người chơi đoán hoặc tài hoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng thua trong tài xỉu tùy thuộc vào khéo của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ. Xác suất chủ sòng là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen nên con bạc vẫn bị thu hút vào sòng xóc đĩa.

Các loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất xứ từ tiếng Tàu. Binh xập xám (13 cây) có những thuật ngữ như mậu binh (không cần binh cũng thắng), cù lủ (full house) là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ như 3 con chín + 2 con K (lớn nhất là cù lủ ách (ace), nhỏ nhất dĩ nhiên là cù lủ hai), thùng (flush) là 5 con cùng nước (suit) mà không theo trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh (straight) là 5 con theo trật tự liền nhau nhưng không cùng nước. Kho từ vựng trong xập xám còn có xám chi (3 con cùng loại - three of a kind), thú (two) hay thú phé (two separate pairs) là 2 cặp và 1 con bất kì nào khác. “Thứ nhất tứ quý (4 con bài cùng số) thứ nhì đồng hoa (cùng một nước như cơ, rô, chuồn, bích)” là một trong số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám.

phần trên đã bàn về hai khía cạnh “ăn” và “chơi”, còn một khía cạnh đóng vai trò không kém phần quan trọng là “làm” của người Tàu. Nghề nghiệp được xếp thấp nhất của người Tàu là nghề lạc xoong hay nói theo tiếng Việt là mua ve chai, người miền Bắc gọi là đồng nát.
Chú Hỏa (1845-1901), người Phúc Kiến, xuất thân từ nghề này nhưng về sau lại là một trong 4 người giàu nhất Sài Gòn xưa: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa”. Bốn triệu phú ngày xưa gồm các ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), Tổng đốc Phương (Đỗ Hữu Phương), Bá hộ Xường (Lý Tường Quan) và Chú Hỏa (Hui Bon Hoa hay Hứa Bổn Hòa).

Một phố chạp phô trong Chợ Lớn

Một số người Tàu hành nghề bán chạp phô với hàng hóa thuộc loại tả pín lù nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hàng ngày của người lao động trong xóm. Tiệm chạp phô chỉ có mục đích lượm bạc cắc từ cây kim, sợi chỉ đến cục xà bong Cô Ba, quả trứng, thẻ đường. Người Tàu kiên trì trong công việc bán tạp hóa, ông chủ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới tiệm chạp phô là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ phát hiện điều này khi có phong trào vượt biên. Tính rẻ “3 cây một người” thế mà cả gia đình chủ tiệm chạp phô vẫn thừa sức vượt biển để tìm đến bến bờ tự do.

Cao cấp hơn là những xì thẩu, những người thành công trong kinh doanh mà ngày nay ta gọi là đại gia. Điển hình cho giai cấp xì thẩu là Trần Thành, bang trưởng Triều Châu, với hãng bột ngọt Vị Hương Tố rồi đến mì gói Hai Con Tôm, nước tương, tàu vị yểu đã chinh phục thị trường miền Nam từ thập niên 60 để trở thành “ông vua không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”.
Xì thẩu Lý Long Thân làm chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hãng xưởng lớn: hãng dệt Vinatexco, Vimytex, hãng nhuộm Vinatefinco, hãng cán sắt Vicasa, hãng dầu ăn Nakyco, hãng bánh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt, Ngân Hàng Trung Nam, khách sạn Arc en Ciel, hãng tàu Rạng Đông…

Xì thẩu Lâm Huê Hồ được nhiều người gọi là “chủ nợ của các ông chủ”. Ông là người giữ nhiều tiền mặt nhất miền Nam, số tiền ông có trong tay bằng vốn của nhiều ngân hàng tư nhân cỡ nhỏ như Nam Đô, Trung Việt gộp lại. Lâm Huê Hồ còn nổi tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân cụ và võ khí phế thải rồi bán lại cho những doanh nhân trong ngành luyện cán sắt hay bán lại cho Nhật Bản. Người Sài Gòn thường nói: “Trần Thành, Lý Long Thân chỉ có tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lại có miếng”.

Xì thẩu Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem Hynos, là một người có óc làm ăn cấp tiến. Ông là người có rất nhiều sáng kiến để quảng cáo sản phẩm trên các cửa hàng ăn uống, chợ búa, hệ thống truyền thanh và truyền hình. Ông cũng là người đầu tiên biết vận dụng phim võ hiệp và tình báo kiểu Hongkong vào quảng cáo. Người dân miền Nam không thể quên hình ảnh tài tử Vương Vũ giải thoát các xe hàng do đoàn bảo tiêu hộ tống thoát khỏi quân cướp: mở thùng ra chỉ toàn kem đánh răng Hynos!

Có rất nhiều xì thẩu được Sài Gòn xưa phong tặng danh hiệu vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua ciné”, là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài Gòn - Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Palace, Thủ Đô…; Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền các hãng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tại Sài Gòn cùng với Thượng Hải Ngân Hàng).

Bên cạnh đó lại có Lại Kim Dung là “nữ hoàng gạo”. Giá gạo tại miền Nam là do công ty của bà ấn định, chính phủ đã có lúc phải hợp tác với “nữ hoàng gạo” để ổn định giá gạo trên thị trường. Trong các buổi tiếp tân lớn, bà Kim Dung luôn xuất hiện bên cạnh các mệnh phụ phu nhân.
Tạ Vinh là một trường hợp xì thẩu đặc biệt. Năm 1964, Tạ Vinh bị Ủy Ban Hành Pháp Trung ương của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ xử bắn tại pháp trường cát trước chợ Bến Thành vì tội “gian thương, đầu cơ tích trữ gạo, gây xáo trộn thị trường”. Dân chúng và báo chí gọi Tạ Vinh là “hạm gạo”. Ông Kỳ muốn cảnh cáo giới tài phiệt gốc Hoa không nên quá lạm dụng tình trạng chiến tranh để làm giàu phi pháp, ông đã tổ chức một cuộc họp kín gồm đủ thành phần đại xì thẩu tại Sài Gòn-Chợ Lớn để cảnh cáo.



Saigon đường Pellerin nay là Pasteur

2
Sang đến thời kỳ thuộc địa, tiếng Pháp đã có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa, xã hội của người Việt. Tiếng Pháp được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ của Chính phủ Bảo hộ và trong giảng dạy ở nhà trường, bên cạnh đó là các loại sách báo thâm nhập đời sống thường ngày của người dân. 

Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes (tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La năm 1651), với mục đích dùng ký tự Latinh làm nền tảng cho tiếng Việt. “Latinh hóa” chữ Việt ngày càng được phổ biến để trở thành Quốc ngữ, chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của ngôn ngữ Tây phương, chính yếu là từ tiếng Pháp.

Khi nắm được ba tỉnh Miền Nam, người Pháp đã nắm trong tay một công cụ vô cùng hữu hiệu để truyền bá văn hoá đồng thời chuyển văn hoá cũ theo hướng văn hoá Pháp. Tờ Gia Định Báo là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc Ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam sau này.

Đối với người bình dân, việc tiếp nhận tiếng Pháp đến một cách rất tự nhiên. Người ta có thể nói “Cắt tóc, thui dê” để chỉ ngày Quốc khánh Pháp 14/7, Quatorze Juillet. Người ta có thể dùng tiếng Tây “bồi” nhưng lại không cảm thấy xấu hổ vì vốn liếng tiếng Pháp của mình chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Để tả con cọp, người ta có thể dài dòng văn tự: “tí ti giôn, tí ti noa, lủy xực me-xừ, lủy xực cả moi”. Diễn nôm câu này là một chút màu vàng (jaune), một chút màu đen (noir), nó ăn thịt ông (monsieur), nó ăn thịt cả tôi (moi).

Nhân đây cũng xin nói thêm về những đại danh từ nhân xưng như toa (anh, mày –toi), moa hay mỏa(tôi, tao – moi), en hay ẻn (cô ấy, chị ấy – elle), lúy hay lủy (anh ấy, hắn – lui), xừ hay me-xừ (ông, ngài – monsieur)... Học trò trường Tây, những nhà trí thức khoa bảng hay cả những kẻ tỏ ra “thời thượng” ngày xưa thường dùng những đại danh từ này. Cũng vì thế có một câu mang tính cách châm chọc: “Hôm qua moa đi xe lửa, buồn đái quá nên moa phải đái trên đầu toa” (toa ở đây có 2 nghĩa: toa xe lửa nhưng cũng có ý là toi (anh) trong tiếng Pháp). 

Người Pháp xây dựng đường xe lửa đầu tiên ở Việt Nam tại Sài Gòn từ năm 1881. Đây là đoạn đường ray (rail) từ Cột Cờ Thủ Thiêm đến bến xe Chợ Lớn, dài 13km. Mãi đến năm 1885 chuyến xe lửa đầu tiên mới được khởi hành và một năm sau, tuyến đường Sài Gòn-Mỹ Tho dài 71km bắt đầu hoạt động. Sau đó, mạng lưới đường sắt được xây dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam, dùng kỹ thuật của Pháp với khổ đường ray 1 mét. Tính đến năm 1975 miền Nam có khoảng 1.240km đường ray nhưng vì chiến cuộc nên chỉ được sử dụng khoảng 60%.

Nhà ga cũng có xuất xứ từ tiếng Pháp gare. Ga là công trình kiến trúc làm nơi cho tàu hoả, tàu điện hay máy bay đỗ để hành khách lên xuống hoặc để xếp dỡ hàng hoá. Từ sự vay mượn này ta có thêm những từ ngữ như sân ga, trưởng ga, ga chính, ga xép… Nhân nói về ga tưởng cũng nên nhắc lại động từ bẻ ghi (aiguiller) tức là điều khiển ghi (aiguille) cho xe lửa chuyển sang đường khác. Trong tiếng Việt, bẻ ghi còn có nghĩa bóng là thay đổi đề tài, chuyển từ chuyện mình không thích sang một đề tài khác.

Có những từ ngữ gốc tiếng Pháp nhưng lâu ngày dùng quen nên người ta cứ tưởng chúng là “thuần Việt”. Chẳng hạn như cao su (caoutchouc), một loại cây kỹ nghệ được người Pháp du nhập vào Việt Nam qua hình thức những đồn điền tại miền Nam. Ngôn ngữ tiếng Việt rất linh động trong cách dùng từ ngữ cao su qua các biến thể như giờ cao su (giờ giấc co dãn, không đúng giờ), kẹo cao su (chewing-gum), bao cao su (còn gọi là “áo mưa” dùng để tránh thai hoặc tránh các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục)…

Nhà băng (banque) là một chữ quen dùng trong ngôn ngữ hàng ngày còn xà bông cũng là loại chữ dùng lâu ngày thành quen nên ít người để ý xuất xứ của nó là từ tiếng Pháp, savon. Ở miền Bắc, xà bông được cải biên thành xà phòng, là chất dùng để giặt rửa, chế tạo bằng cách cho một chất kiềm tác dụng với một chất béo. Nổi tiếng ở Sài Gòn xưa có xà bông Cô Ba của Trương Văn Bền, dùng dầu dừa làm nguyên liệu chính.

Chúng ta thấy ngôn ngữ Việt vay mượn từ tiếng Pháp trong rất nhiều lãnh vực. Về ẩm thực, tiếng Việt thường mượn cả cách phát âm đến tên của các món ăn có xuất xứ từ phương Tây. Vào nhà hàng, người phục vụ đưa ra mơ-nuy (thực đơn – menu) trong đó có những món như bít-tết (chữ bifteck của Pháp lại mượn từ nguyên thủy tiếng Anh – beefsteak), những thức uống như bia (rượu bia – bière, được chế biến từ cây hốt bố hay còn gọi là hoa bia – houblon), rượu vang (rượu nho – vin)…

Về thịt thì có xúc-xích (saucisse), pa-tê (paté), giăm-bông (jambon), thịt phi-lê (thịt thăn, thịt lườn –filet). Các món ăn thì có ra-gu (ragout), cà-ri (curry)… Khi ăn xong, khách xộp còn cho người phục vụ tiền puộc-boa (tiền thưởng – pourboire). Ngày nay từ boa hay bo được dùng phổ biến với ý nghĩa cho tiền thưởng, hay còn gọi là tiền phong bao hoặc tiền phục vụ.

Từ rất lâu, ở Sài Gòn xuất hiện các loại bánh mì theo kiểu Pháp, miền Bắc lại gọi là bánh tây với hàm ý du nhập từ Pháp. Có nhiều loại bánh đặc biệt như bánh mì ba-ghét (loại bánh mì nhỏ, dài – baguette), bánh pa-tê-sô (một loại bánh nhân thịt, ăn lúc nóng vừa dòn vừa ngon – pathé chaud), bánh croát-xăng (hay còn gọi là bánh sừng bò – croissant
Người Sài Gòn thường ăn sáng với bánh mì kèm theo nhiều kiểu chế biến trứng gà như ốp-la (trứng chỉ chiên một mặt và để nguyên lòng đỏ – oeuf sur le plat), trứng ốp-lết (trứng tráng – omelette) hoặc trứng la-cóc (trứng chụng nước sôi, khi ăn có người lại thích thêm một chút muối tiêu – oeuf à la coque).

Món không thể thiếu trong bữa ăn sáng là cà phê (café). Cà phê phải được lọc từ cái phin (filtre à café) mới đúng điệu. Người miền Bắc ít uống cà phê nên sau năm 1975 vào Sài Gòn đã mô tả cái phin cà phê một cách rất “gợi hình”: “cái nồi ngồi trên cái cốc”.

Ngôn ngữ về trang phục cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Pháp. Bình thường hàng ngày người ta mặc áo sơ-mi (chemise), cổ tay có cài khuy măng-sét (manchette). Khi đi tiệc tùng hoặc hội họp thì mặc áo vét (vest) hay bộ vét-tông(veston) kèm theo chiếc cà-vạt (cravate) trên cổ áo sơ mi. Trời hơi lạnh có thể mặc bên trong áo vét một chiếc gi-lê (gilet) và hai tay mang găng (gants) cho ấm.

Ngay cả quần áo lót bên trong cũng mượn từ tiếng Pháp. Phụ nữ trên thì mang xú-chiêng (nịt ngực –soutien-gorge) dưới thì có xì-líp (slip). Nam giới thì mặc áo may-ô (maillot) bên trong áo sơ-mi. Mặc quần thì phải có xanh-tuya (dây nịt – ceinture) và khi trời nóng thì mặc quần sóc (quần ngắn, tiếng Pháp là short được mượn từ tiếng Anh shorts).

Trang phục có thể được may từ các loại cô-tông (vải bông – coton) hoặc bằng len (làm từ lông cừu –laine). Trên đầu có mũ phớt (feutre, một loại mũ dạ), mũ be-rê (béret, một loại mũ nồi)… dưới chân là đôi dép săng-đan (sandales), sau này người Sài Gòn lại chế thêm dép sa bô (sabot nguyên thủy tiếng Pháp là guốc).

Đi lính Tây thì được phát đôi giày săng-đá (giày của lính – soldat). Loại lính nhảy dù, biệt kích (ngày nay là đặc công) gọi là còm-măng-đô (commando). Một đoàn xe quân sự có hộ tống được gọi là công-voa (convoi, trông cứ như con voi trong tiếng Việt!). Thuật ngữ quân sự chỉ những công sự xây đắp thành khối vững chắc, dùng để phòng ngự, cố thủ một nơi nào đó được gọi là lô-cốt có xuất xứ từ blockhouse. Ngày nay, chữ lô cốt còn được dùng chỉ những nơi đào đường, thường được rào chắn, vây kín mặt đường, cản trở lưu thông.

Xưa kia cảnh sát được gọi qua nhiều tên: mã-tà (xuất xứ từ tiếng Pháp matraque, có nghĩa là dùi cui), sen đầm (gendarme), phú-lít (police), ông cò (commissaire)… Lực lượng thuế quan được gọi là đoan (douane), lính đoan còn có nhiệm vụ đi bắt rượu lậu quốc cấm thời Pháp thuộc.

Nông phẩm thì có đậu cô-ve (còn gọi tắt là đậu ve – haricot vert), đậu pơ-tí-poa (đậu Hòa Lan có hột tròn màu xanh – petits-pois), bắp sú (bắp cải – chou), súp-lơ (bông cải – chou-fleur), xà lách (salade), cải xoong (còn gọi là xà lách xoong –cresson), cà-rốt (carotte), ác-ti-sô (artichaut)…

Tiếng Tây cũng đi vào âm nhạc. Từ điệu valse, tango… đến đàn piano (dương cầm), violon (vĩ cầm), kèn harmonica (khẩu cầm)... Ở các đăng-xinh (khiêu vũ trường – dancing) luôn có ọc-két (ban nhạc –orchestre) chơi nhạc và xuất hiện một nghề mới gọi là ca-ve (gái nhẩy – cavalière). Ngày nay người ta dùng từ ngữ ca-ve với ý chỉ tất cả những cô gái làm tiền, khác hẳn với ý nghĩa nguyên thủy của nó.

Người phương Tây dùng nhiều sữa và các sản phẩm của sữa nên đã đưa vào ngôn ngữ tiếng Việt những từ ngữ như bơ (beurre), pho-mát (fromage), kem (crème)... Nổi tiếng ở Sài Gòn có hai nhãn hiệu sữa Ông Thọ (Longevity) và Con Chim (Nestlé) như đã nói ở phần trên.
Có người cắc cớ thắc mắc, đàn ông mà lại là ông già thì làm sao có sữa? Xin thưa, hình tượng “Ông Thọ chống gậy” trên hộp sữa chỉ muốn nói lên tuổi thọ (longévité) của người dùng sữa. Trường hợp của Nestlé cũng vậy. Con Chim thì làm gì có sữa? Thực ra thì logo của Nestlé là một tổ chim (gồm chim mẹ và 2 chim con) nhưng người Việt mình cứ gọi là sữa Con Chim cho tiện.
Cũng vì thế mới có nhiều câu chuyện khôi hài về sữa Con Chim. Chú Ba Tàu, chủ tiệm “chạp phô”, giải thích vì sao sữa Con Chim lại bán với giá mắc hơn những sữa khác: “Sữa con bò vì có nhiều vú nên rẻ, sữa mẹ chỉ có 2 vú nên đắt nhưng Con Chim nhỏ chút xíu, vắt được 1 lon sữa là quý lắm thì phải mắc tiền nhất chớ!”.
Các ông lại giải thích khi các bà thắc mắc Con Chim làm gì có sữa: “Tại mấy bà không để ý đấy thôi, con chim khi hứng chí cũng tiết ra một thứ sữa màu trắng đục, đó không phải là sữa thì là gì?”.

Thế mạnh của Nestlé là các sản phẩm sữa bò khác như Núi Trắng (Lait Mont-Blanc) và sữa bột Guigoz. Ngày xưa, những gia đình trung lưu đều nuôi con bằng sữa bột Guigoz. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác khi ăn vụng một thìa Guigoz của em út: vừa bùi, vừa béo, những hạt sữa nhỏ ly ty như tan ngay trong miệng.

left align image
Lon Guigoz

Guigoz được chứa trong một cái lon bằng nhôm, cao 15cm, có sọc ngang, bên trong lại có sẵn thìa để giúp người pha dễ sử dụng. Khi dùng hết bột, các bà nội trợ không vứt lon như những loại sữa khác vì lon Guigoz có nắp đậy rất kín nên được “tái sử dụng” trong việc đựng đường, muối, tiêu, bột ngọt…
Những người thiết kế lon Guigoz chắc hẳn chưa bao giờ nghĩ cái lon lại có nhiều công dụng sau khi sữa bột ở bên trong đã dùng hết. Lon Guigoz lại còn theo chân những tù nhân cải tạo như một vật “bất ly thân”. Những người “tưởng đi học có 10 ngày” mang theo lon Guigoz để đựng các vật dụng linh tinh như bàn chải, kem đánh răng, vài loại thuốc cảm cúm, nhức đầu để phòng khi cần đến.
Lon Guigoz thường được chúng tôi gọi tắt là “lon gô”. Học tập càng lâu lon gô càng tỏ ra “đa năng, đa hiệu”. Muốn múc nước từ giếng lên thì dùng gô làm gàu, buổi sáng thức dậy dùng gô làm ly đựng nước súc miệng, nhưng gô còn tỏ ra đặc biệt hữu ích khi dùng như một cái nồi để nấu nước, thổi cơm, luộc măng (lấy ở trên rừng), luộc rau, luộc khoai mỳ (“chôm chỉa” khi đi “tăng gia sản xuất”)… nghĩa là làm được tất cả mọi công việc bếp núc.

Chúng tôi ở trong một căn cứ cũ của Sư đoàn 25 tại Trảng Lớn (Tây Ninh) nên có cái may là còn rất nhiều vỏ đạn 105 ly. Người cải tạo săn nhặt những vỏ đạn về và chế thành một cái lò “dã chiến” và lon gô để vào trong lò vừa khít, tưởng như 2 nhà thiết kế vỏ đạn và lon gô đã ăn ý với nhau “từng centimét” ngay từ khâu thiết kế ban đầu! Ai chưa có lon gô thì nhắn gia đình tìm để đựng đồ ăn mỗi khi được vào trại “thăm nuôi”.

Sau 30/4/75 lon gô trở nên hữu dụng vì công nhân, sinh viên, học sinh dùng lon gô để đựng cơm và thức ăn cho bữa trưa. Người Sài Gòn thường đeo một cái túi đựng lon gô khi đi làm, một hình ảnh không thể nào quên của “thời điêu linh” sau 1975. Tình cờ tôi bắt gặp trang web (http://www.teslogos.com/.html) của Pháp quảng cáo bán lon sữa Guigoz cho những người sưu tầm, giá lên tới 15 euro cho một lon Guigoz xưa, dĩ nhiên là chỉ có lon không, không có sữa!
Người Pháp khi đến Việt Nam mang theo cả chiếc ô-tô (xe hơi – auto, automobile). Xe xưa thì khởi động bằng cách quay ma-ni-ven (manivelle) đặt ở đầu xe, sau này tân tiến hơn có bộ phận đề-ma-rơ (khởi động – démarreur). Sau khi đề (demarrer), xe sẽ nổ máy, sốp-phơ (người lái xe - chauffeur) sẽ cầm lấy vô-lăng (bánh lái –volant) để điều khiển xe… Về cơ khí thì người Sài Gòn dùng các từ ngữ như cờ-lê (chìa vặn – clé), mỏ-lết (molete), đinh vít (vis), tuốc-nơ-vít (cái vặn vít – tournevis), công-tơ (thiết bị đồng hồ – compteur), công tắc (cầu dao – contact)…

Bây giờ nói qua chuyện xe đạp cũng có nhiều điều lý thú. Chiếc xe đạp trong ngôn ngữ Việt mượn rất nhiều từ tiếng Pháp. Trước hết, phía trước có guy-đông (thanh tay lái – guidon), dưới chân có pê-đan (bàn đạp – pedale), săm (ruột bánh xe –chambre à air) và phía sau là bọc-ba-ga (để chở hàng hóa –porte-bagages).



Tên các bộ phận trong xe đạp cũng… Tây rặc. Có dây sên (dây xích – chaine), có líp (bộ phận của xe đạp gồm hai vành tròn kim loại lồng vào nhau, chỉ quay tự do được theo một chiều – roue libre), rồi phanh (thắng – frein) ở cả bánh trước lẫn bánh sau. Thêm vào đó còn có các bộ phận bảo vệ như gạc-đờ-bu (thanh chắn bùn – garde-boue) và gạc-đờ-sên (thanh che dây xích – garde-chaine).

Mỗi chiếc xe đạp xưa còn trang bị một ống bơm (pompe) để phòng khi lốp xe xuống hơi. Bên cạnh đó người ta gắn một chiếc đy-na-mô (dynamo – bộ phận phát điện làm sáng đèn để đi vào ban đêm). Tôi còn nhớ khi tháo tung một cái dynamo cũ thấy có một cục man châm gắn vào một trục để khi trục quay sẽ sinh ra điện.

Hồi xửa hồi xưa, đi xe đạp không đèn vào ban đêm rất dễ bị phú-lít thổi phạt nên nếu xe không đèn, người lái phải cầm bó nhang thay đèn! Sài Gòn xưa có các nhãn hiệu xe đạp mổi tiếng như Peugoet, Mercier, Marila, Follis, Sterling… Đó là những chiếc xe đã tạo nên nền “văn minh xe đạp” của những thế hệ trước và một nền “văn hóa xe đạp” còn lưu lại trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Sài Gòn xưa.

3
Sau khi bàn về tiếng Tàu, tiếng Pháp, chúng ta chuyển sang tiếng Anh và bước vào một nền văn hóa đã có những ảnh hưởng “tốt” cũng như “xấu” vào đời sống của người Việt trong khoảng 30 năm chiến tranh vừa qua.
Có người gọi cuộc chiến vừa qua là “nội chiến” giữa hai miền Nam-Bắc nhưng, theo báo chí phương Tây, đó là “cuộc chiến tranh Việt Nam” hay nói một cách khác là “cuộc đối đầu giữa hai phe”, một bên là Tự do gồm Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ và 5 nước Đồng minh (gồm Australia, New Zealand, Đại Hàn, Thái Lan và Philipin) và một bên là Cộng Sản gồm Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, Liên Xô và Trung Quốc.
Tinh thần của bài viết này không bàn đến việc “đúng” hay “sai” của cuộc chiến mà chỉ xoáy quanh những ảnh hưởng của nền văn hóa Mỹ đối với ngôn ngữ Việt trong suốt 30 năm chiến tranh.

Nước Mỹ còn được gọi là Hoa Kỳ hay Huê Kỳ (cờ hoa). Danh xưng này đã xuất hiện trong văn chương Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ 19 qua thuật ngữ “đèn Hoa Kỳ”. Vũ Trọng Phụng trong Vỡ đê, xuất bản năm 1936, có đoạn viết: “…Dung tìm bao diêm ở ô kéo, đốt một cây đèn hoa kỳ lên, tắt phụt ngọn lửa ở đèn dầu xăng. Nhìn ra sân, thấy trời tối om, Dung bèn bỏ bao diêm vào túi…”.

Nguyễn Công Hoan trong Nhớ và ghi về Hà Nội giải thích: “…Đèn Hoa Kỳ là đèn của Mỹ sang ta buôn dầu hoả. Muốn bán được dầu hoả, phải làm đèn cho người mua dầu dùng (...). Dầu của Mỹ, viết tắt là Socony (Standard Oil Company of New York), cạnh tranh với dầu của Anh viết tắt là Shell.

Bất cứ ở thành thị hay nông thôn, hễ có đại lý dầu Mỹ, là ở gần đó, có ngay đại lý dầu Anh. Và trái lại. Nhà bán dầu Mỹ có biển sơn màu vàng, nhà bán dầu Anh có biển sơn màu đỏ. Những nơi bán dầu xăng ô tô, Anh Mỹ cũng cạnh tranh như vậy. Ở Hà Nội, còn có xe dầu đi bán ở phố, cũng sơn màu của hãng... Trụ sở của Ủy ban Khoa học Kỹ thuật ở phố Trần Hưng Đạo, số 39, là trụ sở cũ của hãng dầu Shell của Anh, nên quét vôi màu đỏ. Ngày trước ta gọi là nhà dầu Shell (...).

Royal Dutch Shell (người bình dân gọi là hãng dầu “con sò”) đã thực hiện một chiến dịch “tiếp thị” ngoạn mục là “biếu không” đèn Hoa Kỳ cho người Việt vốn chỉ quen dùng dầu lạc hay nến (bạch lạp) để thắp sáng mà không quen dùng dầu hỏa. Dĩ nhiên, khi đèn Hoa Kỳ đi vào đời sống của người Việt thì cũng là lúc mọi người làm quen với việc dùng dầu hỏa để đốt đèn.
Nhãn hiệu Shell lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1891 qua logo “con sò” trên thùng dầu hỏa mà Marcus Samuel và các cộng sự chuyển đến vùng Viễn Đông. Nhất Thanh trong Đất lề quen thói (1968) giải thích thêm: “Cuối thế kỷ XIX người Tây đem dầu lửa, cũng gọi dầu hôi, vào dùng và bán (...). Hãng bán dầu đã chế ra thứ đèn nhỏ, ngọn lửa vừa bằng ngọn đèn dầu chay, đèn được cho không kèm theo mỗi thùng dầu bán ra, để làm quảng cáo; không rõ lúc ấy dầu lửa từ xứ nào nhập cảng, mà cái đèn kia được gọi là đèn Hoa-kỳ; ngày nay tại nhiều nhà nó vẫn là bạn cố tri bên cạnh cái điếu thuốc lào”.

Image result for oil lamp

Như vậy, thuật ngữ “đèn Hoa Kỳ” (còn gọi là đèn “hột vịt” tại miền Nam), đốt bằng dầu hỏa (còn gọi làdầu lửa hay dầu hôi), đã xuất hiện từ rất lâu, trước khi có cuộc Chiến tranh Việt Nam.

Người ta còn dùng từ ngữ dầu Tây để gọi dầu hỏa khi mới du nhập vào Việt Nam. Ngày xưa, loại dầu này được đựng trong thùng sắt tây. Loại thùng sắt này sau khi đựng dầu được tái chế thành thùng gánh nước hoặc cắt ra làm các vật dụng khác như đồ chơi cho trẻ em bằng thiếc.

Một trường hợp tiếng Anh khác đã du nhập vào Việt Nam từ lâu là trò chơi của trẻ con: “Oẳn tù tì” dịch từ “One, Two, Three”. Hầu như mọi người Việt đều đã từng ra cái búa, cái kéo hoặc cái bao sau khi đọc câu “Oẳn tù tì. Ra cái gì? Ra cái này!”. Hai người chơi và có một trong 3 lựa chọn, cái búa thì đập cái kéo, cái kéo thì cắt cái bao và cái bao lại bao được cái búa.
See the source image

Về  giáo dục, tiếng Anh du nhập miền Nam qua hai thời kỳ, dưới hai dạng ngôn ngữ: tiếng Anh của người Anh (British English) và tiếng Anh của người Mỹ (American English). Thời Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963), tiếng Anh song song với tiếng Pháp, được chọn làm sinh ngữ chính và phụ, tùy theo sự lựa chọn của học sinh từ bậc trung học (lớp đệ thất trở lên). Tài liệu giảng dậy tiếng Anh vẫn lệ thuộc vào chương trình của người Pháp nên chịu ảnh hưởng của British English (còn gọi là Ăng-lê –Anglais). Một trong những sách học tiếng Anh phổ biến trong thời kỳ này là bộ L’Anglais Vivant của nhà xuất bản Hachette (Pháp).

Đệ nhị Cộng hòa (1963-1975) là thời thịnh hành của American English tại miền Nam. Điều này cũng dễ hiểu vì sự có mặt của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam (2). Ngôn ngữ Sài Gòn xưa chịu ảnh hưởng sâu đậm của tiếng Mỹ trong thời kỳ này và có những vay mượn rất lý thú.

OK (okay) có lẽ là một từ nổi bật nhất trong tiếng Mỹ được sử dụng rộng rãi tại miền Nam và nhiều quốc gia trên thế giới. Một số người cho rằng từ này bắt nguồn này bộ tộc da đỏ Choctaws ở Châu Mỹ. Chữ “okeh” của người Choctaw có nghĩa tương tự như từ OK của người Mỹ. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều tranh cãi về thuật ngữ này. Theo chuyên gia ngôn ngữ Allen Walker Read, OK là dạng viết ngắn của “all correct”. Những người khác thì cho rằng OK là dạng chữ tắt của các từ Hy Lạp có nghĩa là mọi thứ đều ổn cả. Không phải ai cũng đồng ý với những giải thích này nên kết luận hãy còn bỏ ngỏ.

Tại miền Nam, còn phát sinh từ ngữ OK Salem, một từ ghép thường được dùng bởi giới bình dân, ít học như gái bán ba (bar), dân xích lô hoặc trẻ đánh giày. Một hình ảnh phải nói là rất xấu trên đường phố thời đó: trẻ con thường chạy theo các chú GIs (Government Issues – ám chỉ lính Mỹ vì dùng đồ chính phủ cấp phát) để chìa tay xin thuốc lá hay kẹo chewing-gum (kẹo cao su)… miệng thì OK Salem rối rít.
Thuốc hút Salem có vị bạc hà (menthol), rất thịnh hành khi lính Mỹ đến Việt Nam, họ mua từ PX (Post Exchange – một hình thức Quân tiếp vụ, chỉ bán cho quân nhân Hoa Kỳ) và tuồn hàng ra thị trường chợ đen (black market). Người Sài Gòn chê Salem là loại thuốc dành cho… phụ nữ, thuốc dành cho đàn ông “sành điệu” phải kể đến Pall Mall, Lucky Strike, Philip Morris, Camel, Winston…

Salem được giới ăn chơi Sài Thành “chiết tự” thành Sao Anh Làm Em Mệt trong khi Pall Mall được giới lính tráng biến thành câu Phải Anh Là Lính, Mời Anh Lên Liền… Có điều thuốc Salem tại Mỹ được phát âm là “xê-lầm” nhưng khi sang đến Việt Nam lại biến thành “xa-lem” nên nếu có sang Mỹ mà hỏi mua thuốc “xa-lem” chắc chắn người bán sẽ lắc đầu quầy quậy!

See the source image Image result for pall mall cigarettesImage result for marlboro

Number one cũng là một thành ngữ được dùng thường xuyên tại miền Nam với ngụ ý… số dzách hay số một. Người bình dân dùng number one thay cho good chẳng hạn như trong câu tiếng Anh “bồi”: “You number one GI!”. Phản nghĩa với number one sẽ là number ten, hoặc tệ hơn nữa là “nâm-bờ ten tháo giường” được Việt hóa từ “number ten thousand” (số mười ngàn). Ai dám bảo là dân Việt không có óc khôi hài?

Cao bồi là thuật ngữ đã đi vào ngôn ngữ miền Nam khi hàng loạt các loại “phim miền Tây” (Western movies) hay còn gọi là “phim cao-bồi”, được chiếu tại các rạp xi nê. Cowboys vốn là những chàng trai chăn bò, có người hành động một cách nghĩa hiệp “trừ gian diệt bạo” nhưng cũng có những kẻ “đầu trộm đuôi cướp” trong bối cảnh Miền Tây Hoang dã (the Wild Wild West) tại Hoa Kỳ thời lập quốc. Bên cạnh các cowboys còn có sự hiện diện của sheriff với ngôi sao trên ngực, họ là những cảnh sát do dân trong thị trấn bầu lên để thực thi luật pháp. 

Phim cao bồi đầu tiên tại Mỹ thuộc loại phim câm (silent film) mang tên The Great Train Robbery được sản xuất vào năm 1903. Những phim cao bồi nổi tiếng thời Sài Gòn xưa phải kể đến Gunfight at the O.K. Corral (năm 1957 với các tài tử Burt Lancaster, Kirk Douglas), Rio Bravo (1959 với John Wayne, Dean Martin, Ricky Nelson), The Misfits (1961 với Clark Gable, Marilyn Monroe, Montgomery Clift), The Good, the Bad and the Ugly (1966 với Clint Eastwood, Lee Van Cleef), Little Big Man (1970 với Dustin Hoffman, Faye Dunaway)…
Từ ngữ cao bồi sau khi du nhập vào miền Nam lại có những biến thể về ý nghĩa. Người lái xe cao bồi được hiểu là lái ẩu, ăn mặc cao bồi là diện những bộ quần áo lố lăng, khó coi…

Tôi còn nhớ, ngày xưa thường hát Học sinh hành khúc của Lê Thương với những lời ca tụng một thế hệ học sinh của tương lai đất nước:

“Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau.
Học sinh xây đời niên thiếu trên bao công lao…”

Thế nhưng bài hát này đã được ai đó, chắc là mấy cậu học trò “rắn mắt”, cải biên thành:

“Học sinh cao bồi mặc áo sơ mi ca rô
Học sinh là người hủ tiếu ăn hai ba tô…”

Tiện đây cũng xin nhắc lại chuyện phim ảnh của Sài Gòn xưa. Để diễn tả một một sự kiện có tính cách kinh dị, người ta còn dùng từ ngữ “hít-cốc”, xuất xứ từ cái tên của đạo diễn Alfred Joseph Hitchcock, “ông vua phim kinh dị” của nền điện ảnh Hoa Kỳ với khoảng 50 bộ phim kéo dài suốt 6 thập kỷ.

Người Sài Gòn đã có dịp xem rất nhiều phim hít-cốc “toát mồ hôi lạnh” như The Man Who Knew Too Much (1956, với James Stewart và Doris Day – trong phin này Doris Day hát bài What Will Be, Will Be – Que Sera, Sera và đoạt giải Oscar âm nhạc hay nhất), Vertigo (1958, với James Stewart, Kim Novak), Psycho (1960, với Anthony Perkins, Janet Leigh), The Birds (1963, với Tippi Hedren, Rod Taylor)… 

Một trong những tác động xấu của người Mỹ đến miền Nam trong cuộc chiến vừa qua là hiện tượng xì-nách ba (snack bar) mọc lên như nấm sau cơn mưa tại Sài Gòn. Khác hẳn với snack bar nguyên thủy ở Hoa Kỳ, thường được hiểu là nơi bán các loại thức ăn nhẹ (snack) như hot dogs, hamburgers, french fries, potato chips, corn chips… còn kèm theo đồ uống.

Sang đến Việt Nam, xì-nách ba trở thành nơi lui tới của những người lính Mỹ xa nhà để uống rượu giải sầu và được phục vụ bởi các cô gái bản xứ. Họ thường là gái quê, ít học và có chút nhan sắc, ăn mặc “thời thượng” với chiếc mini jupe ngắn cũn cỡn. Gái xì-nách ba, hay còn gọi là gái bán ba, thường chỉ ngồi uống nước ngọt hay nước trà với khách nên lính Mỹ gọi đó là Saigon Tea có giá từ 1 đến 2 đô la một ly. Các cô làm ở xì-nách ba không hẳn là gái điếm vì không phải cô nào cũng “đi khách”.

Cũng từ các cô gái bán ba phát sinh ra loại tiếng Anh “giả cầy” kiểu “broken English”. Người ta nghe loáng thoáng trong câu chuyện giữa các cô “đấu hót” với lính Mỹ “Hello GI, you buy me Saigon tea” (Chào anh lính, anh mua cho em ly Sài Gòn ti nhé) hay còn rùng rợn với câu “No star where”, một cụm từ trấn an mà các cô dịch thẳng từ tiếng Việt Không sao đâu!

Lính Mỹ còn đưa vào Việt Nam một số thuật ngữ được dùng từ hồi chiến tranh Triều Tiên. Để gọi người đà bà lớn tuổi họ dùng mama-san, đàn ông thì gọi là papa-san còn con nít là baby-san. Cũng vì thế, trong câu chuyện ở snack bar người ta thường bắt gặp những chữ này khi các cô gái bán ba muốn nói về gia đình mình. Mama-san còn được dùng để chỉ người điều hành snack bar, tương tự như tài-pán, người phụ trách điều động gái nhảy tại các dancing thời Pháp thuộc.

Kinh doanh xì-nách ba là một nghề hái ra tiền tại Sài Gòn bên cạnh những dịch vụ như tắm hơi (steam bath), mát-xa (massage) nhưng cũng chính các nghề này đã khiến cuộc sống trong xã hội mất đi sự lành mạnh, đưa đẩy một số phụ nữ vào con đường tội lỗi. Tuy nhiên, người ta cũng hiểu đó là những hệ quả không thể nào tránh khỏi của một đất nước trong tình trạng chiến tranh.

Xã hội miền Nam bên cạnh nghề thu hút một số người làm việc tại các quán ba còn có một giai cấp cao hơn, họ làm việc cho các hãng thầu tư nhân của Mỹ như hãng RMK được thành lập từ đầu thập niên 60 với các công trình xây dựng xa lộ Biên Hòa, quốc lộ 4 tại Phụng Hiệp… hoặc các cơ quan trực thuộc chính phủ Hoa Kỳ như USAID.

Nói chung, họ là những người đi làm sở Mỹ với mức lương cao nhưng phải đạt một trình độ tiếng Anh khả dĩ trong công việc hàng ngày. Những người có trình độ cao hơn thì làm thông dịch viên, ngay như Trường Sinh ngữ Quân đội cũng có những khóa đào tạo thông dịch viên đồng hóa với cấp bậc trung sỹ để về phục vụ tại các tiểu khu có cố vấn Mỹ.

Năm 2011, tại Little Saigon, đã có một buổi họp mặt “Cựu nhân viên sở Mỹ” nhân dịp Giáng sinh. Gần 400 cựu nhân viên đã đến dự cuộc hội ngộ này, đa số là những người đã từng làm việc tại Tòa đại sứ, Tổng lãnh sự Mỹ, các cơ quan chuyên môn như DAO, CIA, MACV, USAID, USIS cùng những nhân viên hãng thầu RMK của tư nhân. 

Cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 là thời kỳ Sài Gòn chịu ảnh hưởng từ của phong trào hippy (hippie) của Mỹ. Người ta thấy xuất hiện những từ ngữ có liên quan đến hippy như hoa hippy, hippy bụi đời, hippy choai choai, hippy yaourt… Những kiểu thời trang hippy cũng xuất hiện: váy ngắn (mini jupe, miniskirt), quần ống loe (quần chân voi), áo dài hippy thì ngắn cũn cỡn mặc chung với quần ống loe còn con trai thì tóc dài đến độ nhìn từ xa không thể nào phân biệt được giới tính…

Văn hóa hippy bao gồm từ phong cách ăn mặc “bụi” đến những tư tưởng phóng khoáng, chống lại những quy ước cứng nhắc của xã hội. Có thể nói, phong trào hippy là biến tấu của chủ nghĩa hiện sinh(existentialism) theo kiểu “yêu cuồng, sống vội” với Jean Paul Sarte, Françoise Sagan từ văn hóa Pháp. 

Cuối thập niên 60s phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam đã nở rộ tại Mỹ với khẩu hiệu “Make love not war". Biểu tượng của phong trào hippy là hoa không lá (còn gọi là hoa hippy), đó là hình tượng củaPower Flower (sức mạnh của hoa) được bắt đầu từ năm 1965 tại khu Berkerly, California. Người ta còn nhớ mãi hình ảnh một cô gái hippy đã gắn hoa trên họng súng của một quân nhân thi hành nhiệm vụ giữ trật tự trong một cuộc biểu tình phản chiến.

Sài Gòn, các người đẹp gắn hoa hippy lên tóc, cài lên tai, dán lên mắt kính để làm duyên. Người ta còn vẽ hoa lên xe hơi, lên xe Honda, thậm chí đôi lúc còn thấy hoa hippy xuất hiện trên cyclo, xe ba gác, xe bò. Cô em gái tôi có một chiếc áo khi ủi đồ bị than rớt cháy thủng một lỗ, thế là cô gắn luôn một cái hoa hippy, trước là để ngụy trang sau là chạy theo… thời trang! Có thể nói Sài Gòn khi đó giống như Trăm hoa đua nở, nhại tên một chiến dịch thanh trừng chính trị ở miền Bắc. 

Tôi còn nhớ, Trường Sinh ngữ Quân đội vào cuối thập niên 60 có một Chuẩn úy từ Thủ Đức về. Anh Thịnh là một chuẩn úy trẻ, có học vị cao nhưng lại rất lè phè trong lối sống. Hằng ngày anh đến trường bằng chiếc xe hơi bỏ mui (decapotable) được trang trí bằng những bông hoa hippy. Thế là anh chuẩn úy trẻ có tên “Thịnh Hippy” kể từ đó.

Có thể nói, phong trào hippy cũng lan rộng đến người lính qua chuyện về “Thịnh Hippy” nhưng nói chung, những người lính trận mỗi khi có dịp đi phép về thành phố chắc chắn không thể chấp nhận lối sống hippy của các thanh niên, thiếu nữ tại chốn phồn hoa đô hội.
Những người hằng ngày phải đương đầu với súng đạn làm sao có thể “thông cảm” với những người hằng đêm đi “bum” tại các phòng trà, dancing. Một đằng thì phải hy sinh tính mạng để “tham chiến” còn một đằng thì lại ăn chơi để “phản chiến”. Đó là một trong những “mâu thuẫn” trong chiến tranh Việt Nam. Phải chăng đó cũng là một trong những lý do khiến miền Nam sụp đổ?