add this

Thursday, September 10, 2020

Tâm Kinh Bát Nhã









Tâm Kinh Bát Nhã
Thích Trí Th dch

Bồ tát Quán tự tại khi hành Bát nhã ba la mật đa sâu xa soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua mọi khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
.
Xá Lợi Tử! Tướng không các pháp đây, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên, trong không, không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vô minh cũng không vô minh hết; cho đến không già chết, cũng không già chết hết; không khổ, tập, diệt, đạo; không trí cũng không đắc.
.
Bởi không sở đắc, Bồ tát nương Bát nhã ba la mật đa, nên tâm không mắc ngại; vì không mắc ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo niết bàn. Chư Phật ba đời nương Bát nhã ba la mật đa nên chứng a-nậu đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
.
Nên biết Bát nhã ba la mật đa là chú thần lớn, là chú minh lớn, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng, trừ hết mọi khổ ách, chắc thật vì không dối.
.
Nên nói chú Bát nhã ba la mật đa, nên nói chú rằng:
Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề, Tát bà ha".


Tham lun
TTT
Trong những bản Anh Việt Pháp tôi có dịp xem, đây là bản dịch làm tôi thích nhất, tuy tôi không biết chữ Hán, Pali và Sanscrit; mặc dù tôi chỉ tụng bản Hán Tự khi làm vườn, khi thức giấc nhất là khi thức vì ác mộng. Người có trì hành mới biết cốt lõi của kinh mới dịch thỏa đáng. Tôi tin Thích Trí Thủ, ngoài những hệ lụy chính trị vì thời đại, là vị chân tu, tôi biết từ khi thầy là trụ trì chùa Ba La ở Vy Dạ, Huế.
Có luận thuyết cho rằng Huyền Trang viết kinh ngắn nầy là tóm lược bộ Đại Bát Nhã rồi dịch qua Phạn ngữ. Đôi lúc tôi nghiêng về đó khi thấy Tâm Kinh rất logical (duy lý), trong khi văn chương, kinh sách vùng Thung Lũng Ấn rất dài dòng, nhiều tưởng tượng, không khúc triết cô đọng, hữu lý như văn chương Tàu. Theo tôi, tài liệu ngắn này rất vững chãi, dựa trên các xác định (affirmation) rõ ràng. Tôi chỉ chú tâm đến phần thứ ba trong sự phân đoạn chủ quan; bài nầy gồm ba phần.
Thứ nhất. Bồ tát Quán tự tại khi hành Bát nhã ba la mật đa sâu xa soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua mọi khổ ách. QTT Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.
Là một đối chứng (testimony, như tường trình trước quốc hội, to testify); trình bày sự kiện cụ thể QTT làm như vậy (hành thâm Bát Nhã), và có kết quả như vậy, hết khổ nạn. Rõ ràng như mình nói: Nguyễn Quê theo đúng Luân Lý Giáo Khoa Thư học ở lớp ba tiểu học (do đó) trở thành người lương thiện được xóm làng mến thương. Ngày nay hơn nửa số bài viết, luận thuyết, báo chí v.v…bắt đầu bằng câu chuyện.
Thứ hai: Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
Xá Lợi Tử! Tướng không các pháp đây, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên, trong không, không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vô minh cũng không vô minh hết; cho đến không già chết, cũng không già chết hết; không khổ, tập, diệt, đạo; không trí cũng không đắc.
Là phần quảng diễn Bát Nhã như vầy, như vầy.
Phần thư ba còn lại:  Bởi không sở đắc, Bồ tát nương Bát nhã ba la mật đa, nên tâm không mắc ngại; vì không mắc ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo niết bàn. Chư Phật ba đời nương Bát nhã ba la mật đa nên chứng a-nậu đa-la tam-miệu tam-bồ-đề..
Nên biết Bát nhã ba la mật đa là chú thần lớn, là chú minh lớn, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng, trừ hết mọi khổ ách, chắc thật vì không dối.
Nên nói chú Bát nhã ba la mật đa, nên nói chú rằng:
Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề, Tát bà ha".
Phần cuối là cách dùng, mang tính cách hữu dụng. Chân Thiện Mỹ là ba lý tưởng có từ thượng cổ muốn đứng vững phải thêm yếu tố dụng, để đem lý tưởng từ trời cao xuống tầm gần. Kinh luật luận PG không để tô diễm bên ngoài như trang trí. Pháp Hoa (phẩm 16) có chỗ ghi: Như Lai quảng diễn kinh diễn độ thoát chúng sinh”.
Kinh Vô Lượng Nghĩa không ngần ngại nói chúng sinh hiểu biết giáo lý có chỗ khác nhau nhưng đều độ được. Sự khác biệt dưới mắt từ bi của Bổn Sư không mang tính chất đẳng cấp, nhưng pháp sư cần biết để giáo huấn hữu hiệu.
Tuy biết mọi sự phân tích là hướng tách biệt như năm ngón tay mở rộng góc độ giữa hai ngón, tôi vẫn xin tạm dùng để nhìn vào đoạn thứ ba nầy. Có ba cách dùng, nếu không phân biệt (different) thì cũng biền biệt (differential).
Cách thứ nhất: Bởi không sở đắc, Bồ tát nương Bát nhã ba la mật đa, nên tâm không mắc ngại; vì không mắc ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo niết bàn.
Bồ đề tát đõa nương chỗ hiểu về vô sở đắc mà đi tiếp trên con đường Bát Nhã thì sẽ không sợ hãi, xa lìa điên đảo hư cấu vì vọng tưởng. Theo cách nhìn riêng, bồ để tát đõa như chư đại thiện nhân thuyết giảng nơi nơi kể cả internet, tu thiền, ở riêng một tịnh cốc... Đó là nhìn theo biểu kiến còn bên trong họ đã là Phật mình không biết được như có người hạch hỏi Lão Tử không phải là cá thì làm sao biết cá vui thich.
Cách thứ hai: Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba Mật Đa cố, đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Phẩm 16 Pháp Hoa chữ nầy được Thích Trí Tịnh 1948 dịch là vô thượng chánh giác, thành ngữ nầy bây giờ phổ thông hơn.
Đối với hạng bình dân như tui thì kinh phải dùng nhiều chữ hơn, nói trước nói sau, dặn dò đầy đủ. Ca dao VN, trước khi đẩy thuyền ra sông thì: khoang khoang, ơi mụ chèo đò, ơi ông cầm lái dặn dò trước sau. Số lượng chữ thay đổi cho ba cách nói lên phương thức dùng. Ít chữ nhất là cho giới Phật, chỉ nói qua. Nhiều hơn một chút là phần dành cho bồ để tát đõa.
Với giới hẹp trí bình dân như bề tôi, kinh ưu ái dùng nhiều chữ để lưu ý:  a) chú BN là thần chú, vô đẳng, peerless, sans égal / b) chân thật bất hư / c): có hiệu ứng trừ khổ nạn, lập lại chủ để cũ “độ nhất thiết khổ ách"; như trong một symphony, hành âm cuối làm recap chủ đề chính, sít sao trong bố cục.
Do đó, phải hành động, trì niệm, nói, cố thuyết. Đây không phải chỗ giải thích như trên nào là sắc, nào là uẩn. Cái chú nó như thế nầy, tụng đi, thuyết đi, ngõ hầu năng trừ nhất thiết khổ.
[Bạn tôi gần 10 năm tù Bắc Việt, đói Đại Bi, Bát Nhã; lạnh Bát Nhã Đại Bi].

See the source imageThích Trí Thủ không ỏng a ỏng ẹo như một số bản dịch, nhất là Anh Ngữ. Theo tôi Thích TT chủ về hành, trong lúc đa số chủ về tri kiến, biết sâu xa về sắc, đem vào phân tâm học, dùng cả Freud, Jung, có bản đã bỏ quên phần chính yếu là độ nhất thiết khổ ách. Cách dịch cũng khác nhau.
Nhiều bảnh Anh Việt Pháp, trước khi vào chỗ cuối nầy (Cố tri…) thêm mấy chữ: Do đó, vì vậy, therefore, par conséquent không có trong chính bản mà làm đổi ý nghĩa, xem hành động “thuyết” nầy là một hậu quả, một con đẻ của các việc trước. Nó là một cách dụng trong ba thứ dụng.
Thích Trí Thủ dùng chữ “nói” nói chú Bát nhã ba la mật đa, nên nói chú. Tôi thấy hơi ngờ ngợ, lại muốn dùng một chữ Hán là niệm. Một số dịch giả Anh vì muốn làm cho trang trọng, đã dịch chữ “thuyết” của Tàu là expound, họ tránh chữ “say”.
Khi gặp bản dịch nầy, tôi liên tưởng đến Mai Thọ Truyền, cư sĩ khiêm tốn nhưng là đại học giả. Công của ông về mặt xã hội là thành lập hội Phật Học Nam Việt và xây chùa Xá Lợi, ông đã bị đẩy lùi vào bóng tối bởi biến cố 1963. Trong vô số biên khảo, hai tập luận ngắn về kinh Pháp Hoa và Tâm Kinh cho người đọc thấy toát yếu một cách đơn giản rõ ràng như lối nói Đàng Trong vốn bình dị.
*
Ý niệm tóm lược đưa chúng ta đến chữ “tâm” là nắm ruột, là tinh lý, là điểm giữa, chứ không phải là cái tâm thâu tóm mọi giáo lý của Phật. Nhưng tóm lược có thể hiểu là cách rút gọn một cuốn kinh có đủ những qui lệ: Như thị ngã văn, ….đệ tử vui mừng đón nhận ra về. Thực tế, ít ai biết chuyện nầy. Nếu xét rộng rãi như vậy thì hai chữ “Tâm Kinh” không “phạm giới” (thiếu chữ) kinh do Phật thuyết, ngoài Phật thì có luận mà thôi. Nếu “phạm giới” thì rõ ràng nhất là Kinh Pháp Bảo Đàn. Nhiều người cho rằng Kinh nầy ngụy tạo kể cả việc đấu lý của Huệ năng và Thần Tú đều là những fantaisies.
Về ngôn tự, VN mình cho lưu hành Kinh Na Tiên mà chính Thích Trí Thủ đã giới thiệu bản dịch của Cao Hữu Đính; dịch từ tiếng Tàu “Na Tiên Kinh”.
Tôi không biết Pali có dùng chữ sutta hay không. Thích Giới Nghiêm không dùng chữ kinh mà chỉ dịch “Mi Tiên Vấn Đáp” với phụ chú Milinda Panha. Kinh sách nầy ghi lại cuộc đối thoại giữa vua Milinda và tỳ kheo Nagasena, rất quan trọng trong Nam Tông, nhất là Miến Điện.

A-Celebration-of-Women-Feature-Banner-e1352628808407 (1) 512A-Celebration-of-Women-Feature-Banner-e1352628808407 (1) 512


Bản Việt dịch "Tâm Kinh" (Hṛidaya)

"Một lần, tôi nghe như vầy :
Thế Tôn ở thành Vương Xá trên đỉnh Linh Thứu sơn cùng với đại Tăng đoàn và nhiều chư Bồ-tát, vào thời điểm đó, Thế Tôn đang nhập chính định về các "Pháp-giới phân-biệt" gọi là "Cảnh-giới trình-hiện thậm thâm".
Cũng chính tại thời điểm đó, Thánh giả Quán-Tự-Tại Bồ-tát, một đại thiện tri thức, thực hành thâm diệu Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, Ngài thấy được ngay cả năm uẩn cũng đều thiếu vắng tự tánh.
Sau đó, thông qua năng lực gia trì của Đức Phật, tôn giả Xá-lợi-phất thông bạch với thánh giả Bồ-tát Quán-Tự-Tại rằng: "Thiện nam tử nên phát tâm rèn luyện thực hành thâm sâu pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào?"
Khi điều này được hỏi, Thánh giả Quán-Tự-Tại Bồ-tát đáp lời tôn giả Xá-lợi-phất rằng: "Này Xá-lợi-phất! Các thiện Nam tử, thiện nữ nhân phát tâm thực hành pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm diệu nên thấy như sau :
Họ nên soi thấy đúng đắn, xuyên suốt và tái lặp là: đến cả năm uẩn cũng đều thiếu vắng về tự tánh. Sắc tức là không, không tức là sắc. Không (hoạt hành) chẳng khác chi sắc, sắc (hoạt hành) cũng chẳng khác chi Không. Tương tự, thọ, tưởng, hành thức thảy đều là Không.
Xá-lợi-phất, bởi thế, mọi hiện tượng đều là Không , thiếu vắng các đặc tính xác định; chúng không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm.

See the source imageCho nên, Xá-lợi-phất, trong Không, không có sắc, không thụ, không tưởng, không hành, không thức ; không có nhãn, không nhĩ, không tỷ, không thiệt, không thân, không ý ; không sắc, không thanh, không hương, không vị, không xúc, không pháp. Không có nhãn giới và vân vân cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh cũng không có diệt hết vô minh, và vân vân cho đến không có già, chết; cũng không có diệt hết già chết. Không có khổ, tập, diệt đạo. Không có trí tuệ, không có chứng-đắc, cũng không có không-chứng-đắc.
Xá-lợi-phất, vì không có chứng đắc, nên do đó Bồ-tát an trụ theo Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì Tâm không uế chướng nên không sợ hãi, vượt khỏi sai lầm, đạt cứu cánh niết-bàn.
Tất cả chư Phật, an trụ trong tam thế tỉnh thức viên mãn và thấu suốt, cũng y theo Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được vô-thượng chính-đẳng-chính-giác.
Do vậy, phải biết được rằng: chú Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa , vốn là đại tri chú, là đại minh chú, là vô-thượng chú, là ngang bằng với vô-đẳng chú, diệt trừ được mọi khổ não, là chân thật vì nó không sai sót. Chú Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa được tuyên thuyết như sau:
"Tadyatha - gate gate paragate parasamgate bodhi svaha !"
(Vượt qua, vượt qua, vượt qua bên kia, hoàn toàn vượt qua, tìm thấy giác ngộ)
Này Xá-lợi-phất, bằng cách này, các vị đại Bồ-tát nên hành trì trong Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm diệu."
.
Sau đó, Thế Tôn xuất khỏi chánh định và tán dương Thánh giả Quán Tự Tại Bồ-tát.
Thế Tôn nói: "Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, Đúng là vậy. Phải nên hành trì Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm diệu như cách ông ấy nói. Ngay cả các Như Lai cũng đều hoan hỷ!"
Thế Tôn nói xong, tôn giả Xá-lợi-phất, Quán Tự Tại Bồ-tát, toàn thể đoàn tùy tùng chung quanh, và giới chúng sinh bao gồm trời, người, a-tu-la, và càn-thát-bà đều hoan hỷ và tán thán điều Thế Tôn dạy."

See the source image

Translation by the Nalanda Translation Committee

Thus have I heard. Once the Blessed One was dwelling in Rajagriha at Vulture Peak mountain, together with a great gathering of the sangha of monks and a great gathering of the sangha of bodhisattvas. At that time the Blessed One entered the samadhi that expresses the dharma called "profound illumination," and at the same time noble Avalokiteshvara, the bodhisattva mahasattva, while practicing the profound prajnaparamita, saw in this way: he saw the five skandhas to be empty of nature.
Then, through the power of the Buddha, venerable Shariputra said to noble Avalokiteshvara, the bodhisattva mahasattva, "How should a son or daughter of noble family train, who wishes to practice the profound prajnaparamita?"
Addressed in this way, noble Avalokiteshvara, the bodhisattva mahasattva, said to venerable Shariputra, "O Shariputra, a son or daughter of noble family who wishes to practice the profound prajnaparamita should see in this way: seeing the five skandhas to be empty of nature. Form is emptiness; emptiness also is form. Emptiness is no other than form; form is no other than emptiness. In the same way, feeling, perception, formation, and consciousness are emptiness. Thus, Shariputra, all dharmas are emptiness. There are no characteristics. There is no birth and no cessation. There is no impurity and no purity. There is no decrease and no increase. Therefore, Shariputra, in emptiness, there is no form, no feeling, no perception, no formation, no consciousness; no eye, no ear, no nose, no tongue, no body, no mind; no appearance, no sound, no smell, no taste, no touch, no dharmas, no eye dhatu up to no mind dhatu, no dhatu of dharmas, no mind consciousness dhatu; no ignorance, no end of ignorance up to no old age and death, no end of old age and death; no suffering, no origin of suffering, no cessation of suffering, no path, no wisdom, no attainment, and no non-attainment. Therefore, Shariputra, since the bodhisattvas have no attainment, they abide by means of prajnaparamita.
Since there is no obscuration of mind, there is no fear. They transcend falsity and attain complete nirvana. All the buddhas of the three times, by means of prajnaparamita, fully awaken to unsurpassable, true, complete enlightenment. Therefore, the great mantra of prajnaparamita, the mantra of great insight, the unsurpassed mantra, the unequaled mantra, the mantra that calms all suffering, should be known as truth, since there is no deception. The prajnaparamita mantra is said in this way:
OM GATE GATE PARAGATE PARASAMGATE BODHI SVAHA
Thus, Shariputra, the bodhisattva mahasattva should train in the profound prajnaparamita.
Then the Blessed One arose from that samadhi and praised noble Avalokiteshvara, the bodhisattva mahasattva, saying, "Good, good, O son of noble family; thus it is, O son of noble family, thus it is. One should practice the profound prajnaparamita just as you have taught and all the tathagatas will rejoice."
When the Blessed One had said this, venerable Shariputra and noble Avalokiteshvara, the bodhisattva mahasattva, that whole assembly and the world with its gods, humans, asuras, and gandharvas rejoiced and praised the words of the Blessed One.














Wednesday, September 2, 2020

vua Thành Thái lập trường Quốc Học










chỉ dụ thành lập Quốc Học
Emperor Thành Thái's edict to establish the Quốc Học

Lê Minh Khai * Tôn Tht Tu dịch

Năm 1896, Triều Nguyễn thiết lập một học đường ở Kinh Đô để dạy Pháp Văn, là Quốc Học từ tên gốc là Quốc học trường 國學場; tên tiếng Pháp là Collège National (thời ấy “national” - quốc gia - có nghĩa học tiếng Pháp).

Chính quyền thuộc địa Pháp đã có sáng kiến nầy và được vua Thành Thái (TT) chấp thuận qua sự đồng ý của triều đình.
Để chính thức thành lập Quốc Học, TT đã ban hành một chỉ dụ bằng chữ Hán, nói rõ vua thuận phê chuẩn sự thiết lập nầy. Ít lâu sau, toàn quyền Paul Armand Rousseau ký một nghị định thi hành công lệnh ấy tức là thiết lập ngôi trường, kèm theo bản dịch tiếng Pháp chỉ dụ nêu trên.

So sánh công lệnh Hán Việt và bản tiếng Pháp, thì người dịch đã bỏ nhiều điều. Nếu đọc nguyên văn chỉ dụ nầy, chúng ta có thể biết cái nhìn của vua về thế giới rất sâu sắc, không có trong bản đính kèm nghị định của Rousseau.
Chỉ dụ Thành Thái mang nhiều chi tiết thực tiển như cách chọn giáo sư, cách tuyển học sinh thì được dịch chính xác và đầy đủ. Nhưng phần mở đầu của chỉ dụ không được như thế.


Công lệnh bắt đầu với lời giải thích vì sao cần có một trường dạy Pháp ngữ. Bản dịch và bản chính có sự khác biệt to lớn. Sự khác biệt nầy giúp người đọc thấy rằng Hán Văn cổ điển và tiếng Pháp không những thuần túy chỉ là hai ngôn ngữ tách biệt, mà chúng còn cho chúng ta một ý niệm rõ ràng về sự khác nhau giữa hai nền văn hóa và hai thế giới quan khác nhau.

Trích: Quand on veut donner un développement sérieux à l’instruction, on ne se borne pas à un enseignement exclusif, de même que pour assurer la régularité de l’enseignement, il est indispensable de créer des cours d’études. Or, eu dehors des livres sacrés de Chine, il existe d’autres ouvrages des divers pays et le mandat de porter la parole est chose très importante dans les relations internationales. ngưng.

Diễn qua chữ Việt: Nếu muốn đem lại cho nền giáo dục một sự phát triển đứng đắng thì không nên tự giới hạn trong sự dạy dỗ chuyên biệt độc quyền. Cũng giống vậy, để bảo đảm tính cách điều hòa của ngành giáo huấn, cần mở thêm các ngành học mới. Ngày nay ngoài những Thánh Điển từ bên Tàu và tác phẩm từ nhiều nước khác nhau, khả năng nói, đàm thoại là điều vô cùng quan trọng trong các mối liên lạc quốc tế.

諭學無常師,欲其博也。教必立學,欲其專也。蓋六經之外別有方書,列國之交,重在辭命。Dụ học vô thường sư, dục kỳ bác giả. Giáo tất lập học, dục kỳ chuyên dã. Cái lục kinh chi ngoại biệt hữu phương thư, liệt quốc chi giao trọng tại từ mệnh.

(Trong phương cách học  không cần có thầy giáo thường xuyên, thì người học tìm cách mở rộng kiến thức. Nhưng trong việc giáo huấn, cần có một học đường dạy những phần chuyên môn hóa. Ngoài “Lục Kinh” còn có sách vở từng khu vực địa phương. Nhưng trong việc giao thiệp giữa các nước cần có khả năng biện thuyết, đàm thoại).

Những danh tự sau đây cho thấy thế giới quan của TT.
Học vô thường sư 學無常師; học không cần thầy thường xuyên; Lục Kinh 六經  và phương thư 方書, sách vở từng vùng; từ mệnh 辭命, khả năng thuyết giải, đàm thoại, và liệt quốc chi giao 列國之交, giao tiếp giữa các quốc gia. Nhưng chúng không có trong bản dịch.

Học vô thường sư 學無常師, tìm tòi cầu đạt những kiến thức một cách rộng rãi, nhiều nơi chứ không với một ông giáo kỳ cựu “sỉa rẹn” một chỗ. Ý nầy trước đây học giả Hàn Dũ 韓愈 nhà Đường đã nêu trong luận văn danh tiếng nhan đề Sư Thuyết .

聖人無常師:孔子師郯子、萇弘、師襄、老聃。郯子之徒,其賢不及孔子。孔子曰:「三人行,則必有我師」。是故弟子不必不如師,師不必賢於弟子。聞道有先後,術業有專攻,如是而已。

Thánh nhân vô thường sư: Không Tử sự Đam Tử, Trương Hoằng, Sư Tướng, Lão Đan. Đam Tử chi đồ kỳ hiền bất cập Khổng Tử. Khổng Tử viết: Tam nhân hành tất tắc hữu ngã sư. Thị cố đệ tử bất tất bất như sư. Sư bất tất hiền vu đệ tử. Văn đạo hữu tiên hậu, thuật nghiệp hữu truyền công. Như thị nhi dĩ.
[Thánh nhân không có thầy cố định. Khổng Tử chọn làm thầy là những ông Đam Tử, Trương Hoằng, Sư Tướng, Lão Đan, nhóm người như Đam Tử không giỏi, không khôn bằng Khổng Tử. Khổng Tử nói: ba người đi trước mặt ta, nhất định có một người là thầy ta. Như vậy đệ tử không nhất thiết kém hơn thầy; và thầy không nhất thiết giỏi hơn khôn hơn đệ tử. Chuyện là một kẻ đã học đạo trước một kẻ khác; hoặc một người nào đó có kỹ năng chuyên môn hóa. Chỉ chừng đó thôi].

TT mở đầu như vậy để giải thích với quần thần vì sao vua đã ra lệnh thiết lập một trường dạy tiếng Tây. Hẵn rõ TT đang gặp sự chống đối của các học sĩ chính thống cửa Khổng sân Trình; nhóm nầy xem người Pháp là man rợ có kiến thức kém. Do đó vua dùng Khổng học mà biện luận. Khi nói Khổng Tử và các hiền giả đều học với bất cứ ai, TT muốn nói con các quan, con triều thần có thể học với người Pháp.
Vua giải thích rằng kiến thức của người Pháp nằm ngoài Lục Kinh (Lục Kinh chi ngoại 六經之外) nhưng nằm trong sách vở từng vùng khác nhau ngoài nước Tàu (phương thư 方書). Người Tây viết về điểm nầy như sau: Or, eu dehors des livres sacrés de Chine, il existe d’autres ouvrages des divers pays. Ngoại trừ những thánh điển của Tàu, còn có những tác phẩm khác từ nhiều xứ khác nhau.

Khi TT chỉ nói Lục Kinh thì bản dịch là các sách linh thiêng của Tàu (les livres sacrés de Chine). Người Tây xem những chương sách người An Nam học là sách Tàu, của Tàu, nhưng TT chỉ đơn giản nói Lục Kinh. Xa hơn tí nữa, trong bản dịch, người Pháp xem Lục Kinh và sách ngoài (phương thư 方書) cùng mức giá trị như nhau; nhưng bản Hán tự của TT không xem như vậy. Thay vào đó, Lục Kinh và phương thư có hệ cấp giá trị không tương đồng.
'Phương" xem như nghịch với trung ương, thủ đô, phương thư ở cấp tỉnh Lục Kinh ở kinh đô. Một sự so sánh khác nữa sẽ được dùng là Khổng học phân chia văn ,viết và ngôn  nói; văn giá trị hơn ngôn. Kinh đô là nơi mình có thể thấy vua và quần thần, tức là nhóm người có tài và sính diễn đạt tư tưởng bằng cách viết và tự cho mình là gương mẫu nêu cao nền luân lý trong Lục Kinh. Ở vùng xa kinh đô, dân chúng mù chữ chỉ có khả năng diễn tả ý nghĩ là lời nói, do đó người đô hội xem họ thấp kém nhiều phương diện.

T
hế giới quan Khổng học đậm đặc như vậy không thể giúp TT nhìn một cách trung hòa bình đẳng Pháp ngữ, là một ngôn ngữ nói (language parlé).
Thứ nhất, khi ghép tiếng Pháp vào phương thư, TT đã truyền đạt ý niệm thấp kém, bởi vì chỉ có dân quê mới diễn tả tư tưởng bằng lỗ miệng, bằng cách nói; có nghĩa tiếng Pháp không thể đứng ngang với Lục Thư.
Thứ hai, khi nói từ mệnh 辭命, khả năng nói, là rất quan trọng trong mối liên lạc giữa các xứ khác nhau TT đã cho thấy so sánh cao thấp. Hai chữ nầy nằm trong một đoạn danh tiếng trong sách Mạnh tử 孟子. Khúc văn nầy cho biết vài môn đệ của Khổng Tử nói rất hay (thiện vi thuyết từ 善爲說辭). Nhưng Khổng Tử cho biết ông không giỏi nói. 我於辭命則不能也 ngã ư từ mệnh bất năng dã.

Những câu chuyện nhỏ thế này đã nuôi giữ trong đầu các học giả Á Châu hệ cấp bất bình đẳng giữa viết và nói. Khổng Tử không giỏi nói có hề chi vì nói không phải là giá trị hàng đầu. Lập lại, TT gặp khó khăn khi phải giải thích sự cần thiết một ngôi trường dạy Pháp ngữ. TT giải thích vì sao chấp nhận ổn thỏa phải học ở những người một mặt đặt “nói” cao hơn “viết” trên nất thang giá trị, đồng thời thuộc hàng tỉnh chứ không phải trung ương.

Vua TT cùng em trai, thông ngôn và tùy viên người Pháp
04-ThTh-with-FrenchChỉ dụ thành lập QH có nhiều điều hấp dẫn. TT phải đương đầu với những thay đổi khó tin xẩy ra quanh mình. Thế giới đổi thay nầy được phản ảnh qua ngôn từ đã dùng như phương thư và liệt quốc chi giao 列國之交, giao tiếp giữa các quốc gia.
Ngày nay có thành ngữ quan hệ quốc tế 國際關係 (international relations) nhưng chưa có vào thời TT cũng như danh từ ngoại giao 外交, diplomacy chưa có.Trước khi người Pháp đến vào thế kỷ 19, VN chỉ có danh từ bang giao 邦交, liên lạc cấp vùng (domainal relations). Danh tự nầy dùng cho một hệ thống đẳng cấp Đông Á giữa chính quốc (Tàu) và các nước nhỏ chung quanh, những tiểu quốc chư hầu. Thành ngữ nầy xuất hiện 500 năm trước Tây lịch, và thời chiến quốc Xuân Thu. Sách lễ ký 禮記 ghi trong đoạn nói về các nghi lễ triều cống của chư hầu dâng lên vua nhà Chu. Ở VN trước thế kỷ mười chín, danh tự nầy biểu lộ đẳng cấp trong tương quan chính quốc và tiểu quốc giữa nhà Thanh và nhà Nguyễn.

Liệt quốc chi giao 列國之交, interrealations between various countries, người VN bắt đầu dùng vào thế kỷ 19 để nói về sự liên lạc mới có đối với các dân tộc tây phương; đâu đó giữa bang giao và ngoại giao. Trong lúc liệt quốc chi giao đòi hỏi một kỹ năng mới là nói tiếng Tây thì người Việt không sành món nầy, vào thời điểm 1896.

Do đó phát sinh nhu cầu chính đáng phải mở trường QH năm 1896. Nhưng đó cũng là thách thức của TT: làm sao thuyết phục các học vị trong triều, tức là những người học cách khinh thị những thành phần như người Pháp, khinh thị kiến thức và cách thông tri của họ. Nhưng nay phải đồng ý cho con cháu học những kiến thức ấy, học với những kẻ thấp hèn ấy.

Người Pháp không đủ sức hiểu và không cần hiểu những suy tư thâm sâu và bác học của vua Thánh Thái. Ngày nay với những người thông hiểu Hán tự, chiếu chỉ của Hoàng Đế Thành Thái sẽ cung hiến cái nhìn đầy đủ về thời đại của vua và những khó khăn vua phải đương đầu.---

A-Celebration-of-Women-Feature-Banner-e1352628808407 (1) 512A-Celebration-of-Women-Feature-Banner-e1352628808407 (1) 512

Vài lời riêng của người dịch

1.- FB Hội Yêu Lịch Sử đăng một bài nhan đề Chiếu Chỉ vua Thành Thái Lập QH, không nói dịch từ chỗ nào. Nhưng xem mấy hàng đầu, độc giả có thể biết từ bản dịch người Pháp kèm vào nghị định của Toàn Quyền Rousseau; tức là bản dịch mà Lê Minh Khai cho thấy sai lạc thiếu sót.
Quand on veut donner un développement sérieux à l’instruction, on ne se borne pas à un enseignement exclusif, de même que pour assurer la régularité de l’enseignement, il est indispensable de créer des cours d’études. Or, eu dehors des livres sacrés de Chine, il existe d’autres ouvrages des divers pays et le mandat de porter la parole est chose très importante dans les relations internationales.
Hội Yêu Lịch Sử Facebook: Muốn cho việc giáo dục được hoàn bị, không nên hạn chế học vấn trong khuôn khổ hẹp hòi. Trái lại, để đảm bảo cho việc giáo huấn được điều hòa cần mở ra các lớp học thường xuyên.
Nay ngoài những thánh kinh, hiền truyện của Trung Hoa lại còn nhiều sách trước tác ở các nước khác và trách nhiệm của người đại diện phát ngôn trong lúc giao thiệp trên trường quốc tế rất là quan trọng.
Thánh Kinh? The Bible? "Trách nhiệm người phát ngôn?". Một mặt người dịch không có ý niệm về chiếu chỉ bằng Hán Tự, một mặt không hiểu tiếng Pháp. "Mandat" trong ngữ cảnh nầy chỉ là khả năng, kỹ năng. "Porter la parole", một động từ và danh từ bổ túc, là lối nói văn hoa dành cho công việc hằng ngày là phát ra tiếng nói bằng mồm, hoặc cao hơn như biện thuyết, diễn thuyết. Ở đây không có phát ngôn viên. Porte-parole mới là spokeman.

2.- Theo Võ Hương An, người biết rất nhiều về Huế qua các sách khảo cứu, Quốc Học là tên rút ngắn từ bốn chữ Quốc Gia Học Đường; 4 chữ nầy ghi trên một bức hoành nghi hiện treo tại trường. VHA làm rể nhà thầy Nguyễn Đình Hàm, hiệu trưởng đầu tiên khi trường mang tên cũ QH, tiếp theo tên Quốc Học Ngô Đình Diệm 1955. Lê Minh Khai có lẽ lấy tên Quốc Học Trường từ chỉ dụ Thành Thái. Hy vọng đó là ba chữ ở góc trái trên hình chữ Hán đính kèm. Nguyễn Phúc Bá, sư phạm Huế trước 75, cho biết hiện nay trường còn lưu giữ một văn kiện ghi tên trường là Quốc Gia Pháp Tự Học Đường. Trường còn có tên Khải Định, Ngô Đình Diệm.

3. Nhiều người sẽ ngạc nhiên về thuở ban đầu QH là một trường ngôn ngữ. Không rõ lúc nào trường trở nên một học đường đầy đủ. Tham luận với tác giả, tôi cho rằng QH là một Sorbonne của Trung Kỳ, sản xuất một phần lớn thành phần trí thức, ít nhất cho đến 1975. Nhiều người đã có tú tài QH Khải Định mà chưa một ngày ở trong trường này vì Việt Minh giao trường cho quân lính Pháp đồn trú từ 1946 đến 1954 theo hiệp ước sơ bộ giữa HCM và Sainteny. Trường chia làm hai, một nửa xuống trường Việt Anh sau thành Nguyễn Tri Phương cũ, một nửa gởi rể bên Đồng Khánh. BS Trần Văn Tích kể lại vào thời Pháp đóng quân trong trường, ông tướng VM Nguyễn Sơn (?) đi ngang qua Huế an ủi thầy trò lưu vong lưu động bằng cách nói chiếm đóng nầy là điều hay; chúng ta có một rờ mới. Chính quyền Pháp thay rờ cũ (rebel) bằng rờ mới (Révolutionnaire) dành cho chúng ta. Theo bây giờ là "a good deal".’ Hai bên trước sau đều rờ.-----

Nguyễn Trường Tộ, trái Đồng Khánh, phải QH








Wednesday, August 26, 2020

sơn nữ Cà Pha


















Út Bach Lan (1935-2016)
sơn nữ phà ca
thuongcangthuquan * 2017

Hồi còn nhỏ ở quê, bà vú của tôi ưa nằm võng tòn ten ca vọng cổ bắt chước Út Bạch Lan. Mấy câu vọng cổ gọi trai buồn rười rượi nhất là vào lúc trời đêm. Rồi bà vú có thai bỏ thị xã Tuy Hòa theo trai về phía bên kia đèo Cù Mông để đẻ con. Bà vú bỏ thằng nhỏ là tôi ở lại thị xã một mình. Chiều chiều, tôi ưa đứng sân nhà sau ngóng nhìn cái đường rầy tàu lửa đi tít về một phương xa. Một anh lính đa tình đã mang bà vú của tôi đi xe lửa hút qua đèo.
Nghĩ lại… Số tôi ưa bị đàn bà bỏ, hồi đó mới có ba tuổi tôi đã bị đàn bà bỏ rơi rồi. Nhưng tôi chưa hề than khóc khi bị bỏ rơi, tôi chỉ biết ôm vết thương của mình cào cào cho đã ngứa rồi cười cười.

Bà vú đi rồi, mẹ tôi thế chỗ, lại nghêu ngao nằm trên võng tòn ten mà hát: Ngày mai đám cưới người ta, tại sao sơn nữ Phà Ca lại buồn? Thú thật, mẹ tôi ca vọng cổ bằng giọng Quảng Nam không hay cũng không buồn, chẳng hút đàn ông con trai được như giọng bà vú của tôi, chắc vì mẹ tôi đã có hai con, đã hết “quota” xin đám cưới. Còn bà vú của tôi hồi đó là gái chưa chồng, gái chưa chồng hễ cất giọng ca vọng cổ gọi trai là trai tới…
Chuyện đó thấm thoát đã năm mươi mấy năm rồi. Nếu bà vú còn sống tới giờ này chắc đã quá bảy mươi, trời mà cho trẻ cũng hết dám làm sơn nữ nằm võng tòn ten ca vọng cổ… Nếu còn sống, bà vú của tôi nay đã thành lão bà bà.

Tôi nghe hai người đàn bà trong cuộc đời của tôi hát câu Ngày mai đám cưới người ta, tại sao sơn nữ Phà Ca lại buồn? từ thuở còn rất nhỏ. Hai câu vọng cổ đó khi tôi về Sài Gòn sống và đi học, ít khi nào tôi nghe được lần nữa, tưởng chừng như nàng sơn nữ Phà Ca biến mất luôn rồi.

Thế nhưng, một đêm cách đây hai mươi năm đi thuyền buôn dừng ngang ở mũi Lazoret Nhà Bè chờ nước thuận, trong buổi tối chập chùng tôi lại nghe từ xóm vắng bên sông vọng ra tiếng hát của một người đàn ông chắc đang thất tình nên giọng nghe buồn thấy mẹ: Ngày mai đám cưới người ta, tại sao sơn nữ Phà Ca lại buồn?
Tôi nói với thằng thủy thủ phụ việc trên tàu, nó là người địa phương Phú Xuân sống gần khu này từ nhỏ:
- Mày cho tao lên bờ một lát, gần bốn tiếng nữa mới có nước mà đi, nằm hoài trên xà-lan buồn quá.
Nó hỏi:
- Anh đi xuống bờ làm chi vậy? Sóng nước mênh mông nguy hiểm lắm, khúc sông này có nhiều người chết trôi lắm đó, coi chừng mada kéo cẳng sẩy chưn.
Tôi cương quyết:
- Phải đi vô xóm thôi, tao vô kiếm coi thằng cha nào ca vọng cổ mà buồn thê thảm quá vậy. Tao nằm đây nghe giọng nó ca văng vẳng buồn chịu không nổi, phải kiếm ra nó để hỏi buồn cái con mẹ gì mà buồn dữ vậy?

Thằng nhỏ lầm bầm khó chịu rồi cũng phải cầm cây đèn sạc bước xuống bờ chung với tôi. Nó cầm cái đèn sạc bình lò dò đi trong đêm, tôi đi theo sau bước thấp bước cao trên con đường sình lầy dẫn từ bến đò Bà Chúa Xứ vô xóm trong để tìm cho ra cái chòi có thằng đàn ông đang ca bài sơn nữ Phà Ca. Thằng cha nào không biết mà dỗ con dở ẹc để con khóc rân trời, chắc đứa nhỏ nghe đi nghe lại hoài hai câu vọng cổ Phà Ca nên phát chán mà khóc như chó tru. Hay là đứa nhỏ bú vú cha mà cha nó không có sữa nên nó đói? Đi gần tới chòi, tôi nghe tiếng người đàn ông thở dài trong đêm:
- Ngủ đi con, ngủ đi con. Để ba ca cho con ngủ ngon nè. Ù ơ… Ngày mai đám cưới người ta…
Thằng thủy thủ dẫn tôi tới trước căn chòi lá rồi hỏi:
- Người ta đang cố ru con ngủ, anh đòi vô nhà nói chuyện tào lao quấy rầy làm con người ta khóc nữa thì sao?
Tôi tần ngần:
- Mày nói cũng phải, chắc tụi mình đứng đây nghỉ chân một lát rồi quay về lại xà-lan. Từ ngoài vô tới đây cũng trăm thước rồi, cho tao nghỉ một lát rồi về.

Nghe tiếng chúng tôi nói chuyện phía bên ngoài, từ phía trong chòi người đàn ông hỏi vọng ra:
- Ai đó? Ai kiếm tôi đó?
Tôi trả lời:
- Không phải kiếm, tình cờ đi ngang nghe ông ca vọng cổ buồn quá, hay quá nên đứng lại nghe ké chút thôi.
Tiếng người đàn ông:  
-Tôi hát ru con ngủ đó mà, tối nay thấy coi bộ nó phát ban khó ngủ nên khóc hoài. Ngày thường tôi ca hai lần sơn nữ Phà Ca là nó ngủ mất đất rồi. Nãy giờ ca gần tiếng đồng hồ nó cứ khóc hoài. Chắc nó nhớ má nó.

Lại nghe tiếng con nít cất giọng tru não nùng. Người đàn ông dỗ dành:
- Ngủ đi con, ráng ngủ ngon đi con ba thương con nhiều. Ba xin lỗi con nha, đừng giận ba nha. Thương nhất đời là con đó mà, ba thương con mãi mãi nghe. Được chưa?
Tôi phì cười nói vọng vào:
See the source image-Trời, cha nội nói chuyện với con nít mà sao giống nói chuyện với bồ bịch người yêu quá vậy?
Người đàn ông:
- Đời tôi buồn lắm anh ơi, tôi là gà trống nuôi con một mình.
Tôi rất vô duyên to tiếng hỏi vọng vào:
- Sao là gà trống nuôi con? Má nó đi bán muối hả?
Không nghe người đàn ông trả lời, chỉ nghe tiếng con nít khóc tru càng lúc càng gay. Thằng thủy thủ nắm lấy tay tôi giục:
- Đi về thôi anh. Anh làm người ta khó xử rồi. Anh hỏi gì đâu không hà. Anh thì không biết ông Hai Nhẫn này chớ tôi thì biết rành tại tôi người ở đây. Vợ ổng đi qua xứ khác bỏ con lại cho ổng nuôi.
Tôi chửi thề:
- Đụ bà con mẹ nào mà ác vậy?
Thằng nhỏ lại giục:
- Thôi đi đi, chuyện nhà của người ta anh xía vô làm gì. Kệ mẹ người ta…

Hai giờ sáng xà-lan nhổ neo đi về hướng kinh Nước Mặn. Đứng bên cạnh tôi thằng nhỏ thủy thủ lầu bầu:
- Đàn bà xứ này đẹp đẹp chút là bỏ nhà đi Đài Loan. Đàn ông xứ này hễ có vợ đẹp là phải biết chuẩn bị làm gà trống. Gà trống thiến mới ác chớ, gáy to không được chỉ ca vọng cổ e-e.
Tôi cười:
- Mày mới mười tám mà sao nói chuyện như ông già. Hay mày là gà trống thiến?
Nó cười:
- Tôi thà không có vợ còn hơn. Có vợ rồi vì nghèo vợ nó bắt mình nuôi con cho nó đi xứ khác làm ăn hay lấy chồng thì mình rầu biết mấy. Như ông Hai Nhẫn ru con anh thấy chưa. Mấy đứa con nít thích bú vú đàn bà chớ có đứa nào chịu bú vú đàn ông. Như ông Hai Nhẫn tôi đoán chắc ổng dúi mặt con ổng vô ngực để ru mà nó cũng không thèm. Chắc đàn ông hôi nách bất nhơn con nít không chịu nổi.
Tôi hỏi thằng nhỏ: -
Bộ vợ Hai Nhẫn đẹp lắm hả?
Thằng nhỏ cười:
- Ừ, bả đẹp lắm. Hồi đó bả từ Sài Gòn về dưới Lazoret này dạy tiểu học, Hai Nhẫn cũng đẹp trai nên hai người thương nhau lấy nhau. Họ hiếm con, khổ nỗi sống chung được bốn năm năm vừa sanh được đứa con đầu là bả bỏ nhà đi rồi. Nghe nói qua Đài Loan lấy chồng giống y như mấy người đàn bà đẹp trong xóm Bà Chúa Xứ vậy.

Chờ nước được hai ba lần nữa thì tôi tự mình quyết làm quen với Hai Nhẫn, và khi con Hai Nhẫn được ba bốn tuổi thì Hai Nhẫn không còn hát ru con nữa vì đứa trẻ lớn lên sẽ thôi không còn nhỏng nhẻo khi nó biết rõ nó mồ côi. Khi nào nhớ vợ, thì anh chồng gà trống nuôi con nằm mình ên trên chiếc võng tòn ten ca sơn nữ Phà Ca hay Tình anh bán chiếu. Tôi nói với Hai Nhẫn:
-Tôi viết một câu chuyện về người mẹ bỏ con cho chồng nuôi đi lấy Đài Loan, chuyện giống chuyện của nhà ông, ông có giận không?
Hai Nhẫn:
- Giận hờn gì. Ở đây đàn ông nào có vợ đẹp một chút cũng giống tôi, cũng một mình cho con bú. Con nít mọc răng nghiến vú đàn ông của mình đau thấy mẹ. Mình ca sơn nữ Phà Ca để tưởng tượng mình là một người đàn bà thứ thiệt, mà hễ làm đàn bà thì phải cho con bú, con bú nó lỡ cắn vú mình đau thì phải chịu thôi. Có tưởng tượng được mình là một người mẹ thứ thiệt thì mình mới có can đảm nuôi con. Nếu con mình có hỏi “Má con đâu?” thì mình phải biết hãnh diện trả lời: Ta vừa là cha vừa là mẹ của con. Khi con khóc ta ru con ngủ, khi con đòi bú ta trật vú tẹt lét ra cho con bú liền. Mẹ con có cho con bú thì cũng giống như ta thôi, có khi không điệu nghệ bằng ta đâu. Bởi vì ngoài kỹ thuật cho con nít bú ta còn có một tấm lòng với đứa con tội nghiệp bị mẹ nó bỏ rơi.

Nói thiệt, nghe chuyện đàn ông chìa vú cho con bú tôi không thấy hấp dẫn chút nào. Trái lại, tự nhiên cảm thấy nhột nhột kỳ kỳ.
Nhân duyên của tôi với mũi Lazoret bắt đầu từ hai câu vọng cổ vang lên trong đêm buồn của Hai Nhẫn. Sau này có lần tôi nói với Hai Nhẫn:
- Đàn ông buồn vì thất tình thấy dáng vẻ đã hết sức kỳ cục, đàn ông ru con rên khóc vì bị vợ bỏ coi còn kỳ cục hơn.
Hai Nhẫn mặt buồn nói:
- Ngày nào anh rớt vô hoàn cảnh như tôi anh mới biết kỳ cục hay không kỳ cục. Tới hồi buồn tình thì ai cũng hèn yếu cũng rên khóc như ai chớ có ai cười hahaha được hả anh?

Năm sáu mươi tuổi… không biết sao tôi ưa nghĩ về những chuyện rất cũ. Hôm nay, không biết ai nhắc mà tôi ca một mình trong bóng đêm cô tịch: Ngày mai đám cưới người ta, tại sao sơn nữ Phà Ca lại buồn? 
05/04/2017.

==========================================



Friday, August 21, 2020

em Dìn, con Dìn, Hồ Dzếnh


See the source image
Hà Trung, Thanh Hóa, chánh quán Nguyễn Phước Tộc
Em Dìn
H Dzếnh * 1942


T
rong số những người đọc tôi hôm nay, ít nhất cũng có đến một trăm người quen em gái tôi. Tôi nói một trăm, vì muốn để cho em tôi đỡ tủi, khi mưa xuân lướt về trên những mái nhà đầm ấm, và nắng xuân chợt bừng qua kẽ lá như ánh sáng chiếu lại từ những tấm lòng của các thiếu nữ đương tơ. Ngót bảy năm nay, chúng tôi xa nhau, ai biết em tôi đã qua bao nhiêu cuộc thử thách, người con gái vốn đã gầy yếu sẵn khi còn ở chung với chúng tôi? Và cả em nữa, em anh ạ, biết đâu em sẽ lại chẳng đọc anh, đọc chính em, ngạc nhiên thấy đời em giống in như thiên truyện anh viết, và hết cả hồ nghi khi nhìn đến cái tên ký thân thiết dưới này. Nhưng em sẽ ở đâu đọc anh, gần anh, xa anh, hay không còn gần và xa anh nữa, trên đời này? Xuân đến! Mưa bay! Người ta bảo nhỏ anh rằng trong tháng Giêng tốt lành sẽ có nhiều đám cưới. Anh không tin, mà tin làm sao, vì qua ánh sáng ngày xuân, anh vẫn thấy lòng buồn vô hạn.

* * *
Sau bốn năm ba tôi mất, trước hai năm tôi lên tỉnh học, em gái tôi, tôi nhớ đúng thế, vào đời. Cuộc đón rước đầu tiên ở ngưỡng cửa đời sống là một cuộc hò hẹn giữa em tôi và người bạn trai của em. Năm đó, em tôi mười lăm tuổi. Như thế em tôi còn là chậm biết đời nếu so sánh với những thiếu nữ bây giờ mới mười ba tuổi đã tỏ ra lịch lãm. Những khách nợ lâu đời nhất của dì ghẻ tôi - em tôi và tôi là đôi con cùng cha khác mẹ - được em tôi lục ra và đi đòi hết. Em tôi trang điểm cẩn thận trước khi đi, và đi thật lâu. Tôi còn nhớ mùi nước hoa lần đầu em xịt lên tóc, một thứ hương vị ảo não đặc biệt cho mũi tôi lúc bấy giờ. Dì tôi nhìn em trang điểm thì gắt nhưng không phải là đe nẹt, mà lại ngụ ý khen. Riêng tôi, tôi nhận thấy em tôi đã đổi khác. Người con gái họ Hồ đó có lẽ sắp làm nên chuyện gì phi thường đây. Thành thử, hễ em tôi đi đòi nợ, là tôi trốn học đi theo. Chúng tôi “đuổi” nhau qua nhiều phố, cuối cùng, em tôi đến “đòi nợ” một người con trai nhỏ nhắn, xinh đẹp, đứng đợi em ở một phố vắng vẻ vùng ngoại ô. Ai đã từng có một người em gái tự do, tất hiểu lòng tôi lúc đó, một nửa căm giận, một nửa e thẹn, chỉ sợ em biết được anh tò mò dò theo.


Sự bắt được tang chứng kia càng làm tôi phục ba tôi là thông minh, khi một hôm, no thuốc phiện rồi, người nhắm mắt lại, rồi lại mở mắt ra, bảo với tôi đương loay hoay định ăn cắp một cái bánh ngọt trên khay:
- Ba biết con thèm ăn bánh lắm, nhưng sao con không xin ba? Ba đương mải nghĩ về em Dìn của con. Ba chỉ sợ sau này nó hư. Tướng nó không được tốt lắm. Chỉ có anh Hai con là tử tế thôi.
Tôi nũng nịu bảo ba tôi:
- Thế con không tử tế à ba? Lúc nào ba hút thuốc phiện chẳng có con ở ngay bên là gì. Còn anh Hai thì chỉ biết chạy đi chơi.
- Phải, con tử tế với mấy cái bánh. Nhưng thôi, các con nhờ trời cũng khá cả, cái đứa hư nhất ba sợ là con Dìn.

Và ba tôi đã nói đúng. Tôi cũng nghĩ đúng. Một dịp cho tôi khoe cái tài trinh thám với anh tôi:
- Đố anh biết đi đòi nợ là gì?
- Là đi bắt nợ, là đi thúc nợ.
- Là...
Tôi vít cổ anh tôi xuống, nói khẽ:
- Là đi với trai, em Dìn nó đi với trai đấy.
Anh tôi còn trẻ, nên cũng hăng hái hỏi tôi:
-Thật à? Bé thấy con Dìn ở đâu? Hay ai bảo? Nói mau lên, anh sốt ruột nghe lắm rồi đây!
Tôi kỹ càng thuật lại chuyện và cười bảo anh tôi:
- Anh em mình được như cái thằng cu ấy, cũng thích đấy nhỉ.
Ngày hôm sau, chúng tôi lại đi rình, và lại bắt gặp em gái tôi. Nhưng chúng tôi chỉ trông nhau mà không ai dám ra đánh mắng người con trai như ở nhà đã định. Mãi đến sau này, tôi mới kịp nhận thấy chúng tôi nhát gan và vô lý, nhưng lúc tỉnh ngộ như thế, thì em gái tôi đã vào đời!

Gia đình tôi là cuộc phân tranh ngấm ngầm và ra mặt giữa hai phe. Mẹ tôi và dì ghẻ tôi đánh nhau luôn, nhất là từ ngày ba tôi mất. Dì ghẻ tôi đã nhanh nhẹn chiếm được hết của cải của ba tôi, và khôn khéo sang tên dì ngay từ hồi ba tôi còn sống. Mẹ tôi không có cái gì cả, ngoài ba thằng con trai phải nuôi, và cái bàn thờ của ba tôi phải dọn sửa. Mẹ tôi bảo dì tôi là con một đứa hái củ nâu. Dì tôi chối phắt cái gốc tích ấy đi, và trả lại cho mẹ tôi hai tiếng “lái đò”. Rồi hai người đánh nhau. Anh Cả tôi chạy can hai người ra, anh Hai tôi đóng cửa cho hàng phố khỏi thấy, còn em tôi và tôi thì khóc. Chúng tôi không biết ai phải, ai trái, nhưng chúng tôi người nào bênh mẹ người ấy. Em gái tôi phân bua với tôi:
- Mẹ anh tồi quá, cứ đánh mẹ em luôn.
- Mẹ em tồi ấy. Cậy có của lộng quyền.

Giữa hai chúng tôi có một cái gì ngăn trở. Chúng tôi tuy cùng ở chung một nhà, ăn cùng mâm, nhưng thực ra thì xa cách. Mẹ tôi tìm đủ cơ hội để dìm dì tôi xuống, và cố nhiên, như bắt được một thứ khí giới độc ác và mầu nhiệm, người vin ngay lấy câu chuyện theo trai của em tôi để nói bóng gió. Hôm hai người cãi nhau, tôi được gọi ra làm chứng. Tôi thấy dì tôi ngồi trên sập, trước mặt một cái tráp trầu không vỡ đổ, nghiến răng hỏi tôi:
- Có thực chính mắt anh trông thấy con tôi theo trai không?

   nxb Nguyễn Hà, Hà Nội 1942

Tôi không đáp và đưa mắt nhìn em gái tôi đứng thút thít khóc ở xó nhà vì vừa bị mấy cái tát. Tiếng dì tôi vẫn dằn mạnh:
- Anh cứ nói đi để tôi đánh tan xác nó ra, đồ không có người dạy!
Mẹ tôi xen vào:
- Đừng có nỏ mồm. Bảo ai không có người dạy? Không được chạm đến con tôi!
Giữa lúc tôi chưa biết nói làm sao cả, thì em gái tôi chắp tay đưa lên bụng, kín đáo lạy tôi mấy cái. Lòng thương một người con gái yếu ớt làm tôi quên hẳn sự hiềm khích giữa người trong nhà. Tôi đáp rất gọn:
- Không, con nói dối đấy chứ!
Tức thì dì tôi vênh mặt lên:
- Nghe nữa đi, nghe cái đồ nói dối nữa đi!
Và tức thì hai cái tát của mẹ tôi cháy bỏng trên má tôi:
- Ai dạy mày nói điêu, mày hai lưỡi!
Nhưng tôi lại chỉ còn có một lưỡi, khi ngồi ăn cơm với mẹ tôi:
- Đúng là con Dìn đi với trai, mẹ ạ. Ban nãy nó lạy con đừng nói.
Mẹ tôi lườm tôi và im lặng. 

Một chiều kia, đi học về, tôi ngạc nhiên thấy em gái tôi bị trói chặt như con lợn nằm ngoài sân, nhăn mặt dưới những vụt roi mây chập ba lại. Bên cạnh em, những tờ thư vất bừa bãi, cái xanh, cái tím, cái vàng, cái lá mạ. Dì tôi sai anh Hai tôi đọc to lên từng cái một. Mỗi lần một bức thư đọc dứt, là một lần roi mây vụt xuống đít em tôi. Tôi ngẩn người nghe cái giọng nói khôn khéo ngọt ngào mà tôi được biết lần thứ nhất. Nó lọt tai và mát lòng quá. Đôi khi người con trai gọi em tôi là “quý nương” và tự xưng là “kẻ này”. Tôi giấu một bức thư vào túi rồi đem ra học thuộc lòng. Em tôi chắc không muốn nghe lắm, nên nhắm mắt lại. Thực không gì đẹp bằng yêu nhau, xấu bằng yêu nhau!
- Đấy, em anh, anh xử lấy. Bây giờ ba nó đã chết rồi, tùy anh định liệu.
Anh Cả tôi vốn hùng hổ nên đáp:
- Gọt gáy bôi vôi, đem trôi sông nó đi!
Em tôi nghe hai tiếng “trôi sông” thì nức nở khóc. Dì tôi nóng mắt, cúi xuống, giật từng cái áo của em mặc ra. Đột nhiên không ai bảo ai, ba anh em chúng tôi cùng quay mặt đi. Riêng tôi, tôi thấy nổi dậy trong lòng nỗi công phẫn đối với cách giáo dục tàn nhẫn kia. Và suốt đời, tôi không quên được cái thảm cảnh của một người con gái bị xử ngược chỉ vì phạm một tội rất thông thường là yêu vì nhẹ dạ. Sự đó rất có ảnh hưởng đến đời tình ái của tôi, một cuộc đời chỉ toàn thấy những dang dở vì lẽ tôi không biết giữ trong tay những hạnh phúc mau biến.

Sau trận đòn hôm ấy, em tôi trở nên buồn bã. Cuối cùng, dì tôi nhốt em tôi vào một cái buồng tối, khóa kỹ, chỉ cho giao tiếp với bên ngoài qua cái cửa sổ nhỏ. Tôi linh cảm rằng, tuy chúng tôi đã được yên lòng về cách nhốt em tôi như thế, một sự gì nghiêm trọng vẫn lảng vảng quanh nhà chúng tôi. Quả nhiên, một đêm kia thức dậy, tôi đứng ở trên gác nhìn xuống đường phố, chợt thấy một bóng người động đậy trong bóng cây. Ngay lúc đó, cánh cửa dưới nhà kêu lên, và người vú già tay cầm một tờ giấy trắng tiến lại phía cái bóng. Tôi ngẫm nghĩ và hiểu biết. Sáng mai, tôi chạy xuống nhà, lại căn buồng nhốt em gái tôi, bảo em:
- Sao em dám đưa thư cho vú già đem cho cái thằng nào đấy?
Em tôi đáp lại bằng một giọng cương quyết, rắn rỏi, một giọng nói làm tôi rùng mình, không ngờ có thể có được ở trên môi người con gái mới mười lăm tuổi:
- Tại vì... em nhớ người ta quá!
- Thế em không sợ người nhà đánh à?
- Trừ phi anh nói. Nhưng em biết anh tử tế, chắc chẳng bao giờ anh muốn em khổ hết; anh còn nhớ ngày nào chúng ta giữ trâu và ăn ổi với nhau không?

Cầu Hàm Rồng xưa, Thanh Hóa


See the source imageTôi không quên được ngày đó. Nó là cái kỷ niệm đẹp đẽ của đời tôi mà em tôi vừa nhắc lại. Một cánh đồng cỏ xanh mượt nằm ngủ dưới chân đồi, mới ba giờ chiều đã mờ, vì bóng núi che khuất mặt trời đổ lên đó. Chúng tôi thả trâu cho tự do ăn cỏ, lòng thanh thản dưới một bầu trời sáng đẹp. Đôi lúc tiếng sáo của dân Mường từ xa vẳng lại, là những thanh âm độc nhất hiu hắt trong cái rộng rãi, cô quạnh của linh hồn. Chúng tôi đánh trâu bò lên đồi vào lúc mờ sáng, và trở về nhà khi nắng vàng chỉ còn nửa đốt ngón tay trên đầu bụi trúc.
Đàn vật nối nhau theo hàng một, từ trên đồi uể oải xuống, làm thành một cái dòng màu xám chảy chầm chậm trong ánh mờ nhạt của hoàng hôn.

Ngoài mấy người con gái mà tôi mến rất nhẹ nhàng và rất kỳ dị, em tôi là người bạn nhỏ hiền hậu của tôi ngày ấy. Chúng tôi cùng để lòng ước mong những chuyện không thể có, em tôi mơ được một căn nhà ngói dựng trên đồi, và tôi khờ khạo hơn, giản dị hơn, được bình yên chăn trâu trọn kiếp. Hai tôi lấy hoa sim cài lên đầu, lên áo, và cùng cho rằng hương hoa sim thơm, tuy thực ra nó vô cùng nhạt nhẽo. Chính ở cái chốn mà mây gió còn giữ nguyên màu dĩ vãng đó, chúng tôi lớn lên hồn nhiên giữa bài thơ tưng bừng của sự sống, hồn nhiên nhận biết cái tang máu mủ lần thứ nhất xảy ra trong cuộc đời chúng tôi: ba tôi mất. Cái chết lặng lẽ của người trái hẳn với tháng ngày sôi nổi người sống, làm nhiều khi tôi sinh lòng ngơ ngẩn trước thiên luật không thể cưỡng lại gieo xuống muôn loài. Đời sống lôi cuốn chúng tôi về những hoàn cảnh khác. Chúng tôi đau đớn thấy mây gió ngày xưa dần dần xa vắng bên những giấc mộng chỉ còn là nỗi thương tiếc nức nở giữa cuộc đời.

Người con gái ngây thơ, vô tội là em tôi ngày xưa, bây giờ đang yêu thắm thiết, yêu mê say và đang phác họa trong óc những bước đường liều lĩnh sau này. Một sáng, giấc mơ của tôi bị cắt đứt vì mấy tiếng kêu hốt hoảng của dì ghẻ tôi:
- Trời ơi, con Dìn nó trốn mất rồi!
Tất cả mọi người cùng chạy vội lại bên dì. Gian buồng nhốt em tôi đã từ bao giờ bật khóa. Rương của em tôi bị nậy nắp, bao nhiêu áo quần cũ, mới đều mất hết. Tôi chợt nhận thấy, trước quang cảnh đó, một sự gì hoang vắng lạ lùng, một nỗi gì lạnh lẽo không hẳn buồn rầu, nhưng kinh ngạc. Dì tôi lăn mình vật vã khắp nhà. Anh Cả tôi suy nghĩ về cách trốn đó. Anh Hai tôi thông minh hơn, chạy tìm em ở khắp các xó giường giăng đầy mạng nhện. Tôi thì chỉ biết yên lặng. Bỗng tôi để ý đến đôi mắt của ba tôi trong bức ảnh đặt trên bàn thờ, đôi mắt như quắc nhìn tôi. Nét mặt người buồn vì sám. Tôi ngờ như có sự trách cứ huyền bí nào đó, sự trách cứ chính đáng gieo xuống tôi, vì tôi là một kẻ phạm tội: tôi đã quá dung thứ sự thầm lén của em gái tôi.

Cuộc trốn đi được ngót ba tháng, thì một hôm, chúng tôi nghe tin em Dìn bị người con trai từ bỏ. Sự đoạn tuyệt đột ngột đó rất phiền phức và khó hiểu với tôi. Nhưng anh Hai tôi lại tỏ ra rất tường tận, kinh nghiệm. Anh giảng cho tôi biết:
- Đại phàm yêu nhau mà lấy nhau là hỏng.
- Thế yêu nhau mà không lấy nhau là không hỏng à anh?
- Cái đó còn tùy mỗi người một duyên số!
Câu triết lý vu vơ của anh tôi thế mà đúng. Người ta yêu nhau chỉ để yêu nhau. Lấy nhau tức là tham lam, ích kỷ. Mà đã yêu nhau, sao lại không thể can đảm xa nhau, không thể cao thượng chịu dứt cái tình đau đớn được? Ái tình, mà cái tên thứ hai ở thế gian này là đau khổ, không bao giờ cho phép người ta được thỏa nguyện. Chỉ có cha mẹ mới có quyền định đoạt được cuộc đời của con, và “Trời” muốn thế, vì các bậc đã phải mang nặng đẻ đau, ắt được đền bằng một bài tính đố chính họ tìm lấy con số đáp! Xa nhau là yêu nhau thêm lên, vì hai trái tim vẫn tưởng nhau đẹp đẽ, nghĩa là vẫn sung sướng đánh lừa được nhau, vẫn mơ hồ và... tưởng tượng! Em gái tôi không hiểu thế sự, dám liều lĩnh đem cái tuổi mười lăm của mình ra thử thách một chuyện vượt lên trí óc, dại dột đem mình làm gương cho người sau, cho tôi.

Em tôi đi được ba tháng thì dì ghẻ tôi cũng đi theo. Người đàn bà này đường hoàng đi ra bằng lối cửa chính, đem theo tất cả những của cải mồ hôi, nước mắt của ba tôi. Người khách thương ba mươi năm trời lăn lộn để gây chút sự nghiệp mong manh, không biết lúc này, ở thế giới bên kia, có thấy rằng, chỉ những cuộc hôn nhân chính đáng mới tạo được nên những người vợ hiền và con chính đáng? Còn những sự lấy nhau vì nhục dục, vì tham vọng, chỉ là cách tự thỏa mãn và không có nghĩa gì?

Từ bao lâu nay, tôi vẫn tin rằng mẹ tôi sung sướng. Nhiệm vụ một người vợ hiền, mẹ đảm Việt Nam đã được làm trọn vẹn, và danh vọng xứng đáng ấy được lấp lánh ở một chỗ cao quý nhất trong trái tim người. Cái phần thưởng đến với người tuy quá chậm và khó, nhưng chính sự khó và chậm ấy đã khiến tôi yêu mến nước Nam của tôi bằng một tấm lòng trọng đại, một mối tình vô song, nhất là quê hương thứ hai của tôi lại không được huy hoàng rực rỡ!

Một năm trôi qua. Mùa xuân đến. Chúng tôi đón Tết trong nhà nhỏ, ba anh em cùng ngồi quây quần bên mẹ, quanh một nồi bánh chưng sôi. Gió bên ngoài rét lắm, lật trái những tấm lá thấp thoáng trong ánh lửa từ bếp chiếu ra. Mưa rơi ngoài cửa. Bàn thờ ba tôi sáng trưng lên dưới một hàng nến đỏ nghiêm chỉnh như một toán quân đi chào cờ. Mắt mẹ tôi long lanh ướt. Người nhìn vào bếp lửa, đầu gối giơ cao để che lấp đôi mắt, chăm chú giở củi, nhưng thực ra là để che sự cảm động. Giữa lúc đó, người vú già ghé vào tai tôi:
- Cậu ra cho cô Dìn hỏi. Cậu ra một mình thôi!

Tôi ngạc nhiên đứng dậy, nói thác với mẹ tôi là đi tiểu rồi mở cửa bên chạy ra đường. Tôi thấy em tôi đứng nép dưới hiên một nhà người hàng xóm, rét run cầm cập. Tuy không trông rõ mặt và người em, nhưng tôi cũng biết được em gầy và yếu đi nhiều lắm. Em tôi nhìn tôi rồi hỏi:
- Anh ra có ai biết không? Mẹ em làm gì đấy?
Tôi giấu chuyện dì tôi bỏ nhà đi, và đáp:
- Không ai biết cả, vì anh nói dối anh đi tiểu. Cả nhà đang nhớ em, sao em không vào?
- Anh đừng nói cho ai biết em về nhé! Em van anh đó. Em xấu hổ lắm. Em lại đây thăm nhà vì em nhớ mẹ, nhớ các anh.
Tôi nghẹn ngào bảo em:
- Thôi em cứ về. Mẹ em năm nay ăn Tết ở nhà ông ngoại. Chả ai đánh em nữa đâu.
Nước mắt em tôi trào ra, em nức giọng:
- Không, em không vào. Em đến chúc Tết anh là đủ. Xong, em đi...
Tôi hốt hoảng:
- Em đi đâu?
- Em vào Sài Gòn. Mười giờ tối hôm nay có tàu. Em chỉ còn ở đây được hai giờ nữa thôi. Năm nay anh có được nhiều tiền phong bao không? Chắc bánh chưng ở nhà ngon lắm nhỉ?
- Ừ ngon lắm, em vào mà ăn!
- Em đã bảo em không vào mà lại! Em lại đây cốt được trông thấy anh, và xin anh... mấy xu mừng tuổi gọi là nhớ lại ngày nào anh mừng tuổi em!

Tôi sờ vào túi, móc ra được năm đồng xu, ngần ngại đưa cho em tôi.
- Anh nghèo lắm em ạ.
Em tôi đón lấy số tiền, và cười đau đớn:
- Thế là nhiều rồi anh ạ. Thôi em đi nhé!
Nói dứt, em tôi lủi vào bóng tối, trong lúc tôi chợt nhớ ra, hỏi với:
- Em... em vào Sài Gòn với ai?

Tôi bước vào nhà buồn bã, sau khi đưa ống tay áo lên quệt nước mắt, giữa lúc mẹ tôi đã đứng dậy thắp hương trên bàn thờ ba tôi, vì tiếng pháo giao thừa bắt đầu nổ. Xuân về!
Mẹ tôi yên lặng khấn khứa, đoạn quay lại phía chúng tôi, giọng nói của người như nhắc lại cả một dĩ vãng thiếu tươi đẹp:
- Không biết con Dìn năm nay bao nhiêu tuổi nhỉ?



Viết về Hồ Dzếnh
Thái Tú Hp  ***Nhà thơ tài danh Hồ Dzếnh đã nằm xuống vĩnh viễn ngày 13-8-1991, khi tuổi thọ vừa 75. Sau khi được tin ông ra đi, Hà Nội đã rầm rộ mang đầy hoa đến phúng điếu, đăng tin trên khắp nhật báo, tạp san văn học, cùng với những bài viết ca ngợi Hồ Dzếnh như một thiên tài của Đất Nước. Trong lúc ông còn sống, chỉ là một công nhân thợ đúc thép Gia Lâm tầm thường, nghèo khổ, ngày ngày đi về căn gác nhỏ, thầm lặng như một tội đồ, không một ai thương tiếc.*
Mai Tho  ***Trong cái thế giới ngột ngạt bít bưng tức thở của những tháp ngà tiền chiến như những phần mộ lạnh buốt, thơ Hồ Dzếnh hơn cả Xuân Diệu và theo tôi, hơn cả Nguyễn Bính đầu mùa, là những xâu chuỗi lanh lảnh nhạc vàng gõ vui từng nhịp nắng trên mênh mông đài trán thiên nhiên. Tôi nhớ mãi cái cảm giác của tôi, 20 tuổi, tiếp nhận một tập thơ còn trẻ hơn hồn mình phơi phới, một tập thơ cỏ non lả lả, một tập thơ cốm mới đậm đà, một tập thơ mười tám cái xuân đầy, đọc mỗi câu tưởng như có mật, có đường ngọt trong cổ. Thơ Hồ Dzếnh là cái trạng thái ngu ngơ mà chủ đề là tình yêu và ánh sáng. Ngó thật kỹ, Quê Ngoại không hằn một nếp nhăn. Với tôi, một tập thơ đầu tay phải như thế. Phải có cái khí thế vạm vỡ của sức sống như một vươn tới, cái vóc dáng của tình yêu như một kín trùm dào dạt. Dẫu cho lỡ cả thiên đường, thì xin một nửa tấc vườn vắng hoa. Hồ Dzếnh không làm thơ đâu. Thơ đã có, đâu đó, trên mây, trên cành, trong nước chảy dưới chân cầu,trong không khí, thơ một thuyền đầy, thơ một chuyến lớn chở Hồ Dzếnh đi vào thênh thang tiếng nói…” *

A-Celebration-of-Women-Feature-Banner-e1352628808407 (1) 512

Chiều* H Dzếnh * Dương Thiu Tước * Mai Hương



Saigon năm xưa