add this

Monday, July 11, 2016

đàn bà, truyện ngắn

dương liễu (thùy dương, phi lao)

đàn bà
truyện ngắn tôn thất tuệ

Mai xoa đầu đứa bé ôm chân mẹ, thản nhiên nói: “con hải tặc đấy, bốn tuổi rồi”. Đưa mắt ra cửa sổ, nàng tiếp:
“Anh nghĩ có buồn không, nó lớn rồi nên em rảnh một tý; có thì giờ suy nghĩ về quãng đời qua. Tinh thần em suy sụp. Mẹ già yếu mắt mù lòa, em ôm lấy mà nuôi; may nhờ có trợ cấp xã hội, em nuôi mẹ và con như cái ‘job’ của Reagan. Ngoài ra em vẽ phần phát họa theo mẫu cho một người Mỹ rồi bà vẽ tỉếp. Loại tranh hàng loạt nầy bán được lắm nên họ thuê em một bức mười đồng, mỗi tháng kiếm hơn trăm bạc, chơi một bát hụi. Tích thiểu thành đa; ít lâu nữa nhờ trời em sẽ mở một tiệm sửa áo quần để rủ áo từ quan, rời Tòa Bạch Cung. Anh nghe có sợ không?”

Mai cười tự nhiên. Lần đầu tiên tôi đến apartment nầy một mình. Các bạn giới thiệu tôi quen Mai không bao giờ nói câu chuyện đứa con hải tặc ấy. Tôi suy nghĩ mung lung, không nói, hồi tưởng cảnh hảm hiếp trên chiếc tàu của tôi cùng thời gian Mai vượt biên.

Bà cụ gọi Mai vào giúp việc gì. Trở ra, Mai đưa tôi gói thuốc lá loại nhẹ cho phụ nữ. Tôi nhìn có vẻ thắc mắc nên nàng nói:
“Em không hút thuốc đâu. Hôm nọ ông Kinh và anh đến để quên. Nhà không có diêm quẹt xin anh dùng lò gas”.

Mai đưa tôi vào bếp. Mấy con dán bò quanh. Mai dùng chiếc dép tả xung hữu đột. Mai lấy tay bốc chiến lợi phẩm khoe con. Ngồi thừ xuống ghế ở bàn ăn, cô nàng chỉ tay vào đứa bé gái, nói:
“Sawadi (tiếng Thái), phước nhà, nó thông minh, không quá xí gái. May, gã đánh cá ấy không đen. Hiên, lại đây mẹ coi cái răng ra sao.”

Tôi đánh trống lãng: “Đẹp quá chứ gì nữa. Lớn lên sẽ biết tay, nó làm bao kẻ xao xuyến. Đời thường là một kiếp sầu đau gieo cho bao chàng trai; lời Việt bản nhạc Nam Mỹ tả sóng chiều.

Sóng vỗ vào chiều, sóng vỗ vào thuyền hay sóng vỗ vào đời? Biển cả chỉ mặn như nước mắt. Đừng cười em dùng chữ cải lương và làm dáng triết gia. Ai đã sống thực mà không phải là triết gia, nhất là khi trực diện cái sống chết của một phần thân thể hay của chính mình. Em muốn nói quyết định phá thai.”

Mai đứng dậy chỉ tay vào hàng cây xanh ngoài đường rồi tiếp:
“Anh cũng đến Songkhla rồi chứ. Đứng trong bệnh xá em nhìn những cây dương liễu in rõ lên nền trời và biển. Em thấy có gì linh thiêng cao mãi vời cao. Một sự sống tự nó đẹp hơn gì cả. Nó làm em sống sau một đoạn đường trên biển dài và đau khổ. Em muốn ói. Đưa tay xoa bụng em thấy dịu bớt, em biết có sự sống dưới tay em và dưới lớp mỡ. Nó đang sống như những cây liễu đang sống. Em đi vào từ chối đề nghị của bác sĩ người Pháp.
“Thật ra em đã suy nghĩ nhiều. Trước khi lên nhà thương, em nằm mơ thấy ba. Ba đẹp trai lắm; nhiều cô nhiều bà chạy theo. Mẹ một mặt sợ mất chồng, một mặt khoái tỉ. Không rõ ba có làm ai lỡ làng trước và sau khi lấy vợ hay không. Nếu có phải chăng vì vậy em gánh chịu hôm nay? Mình hay nói đời cha ăn mặn đời con uống nước. Nếu đúng là định luật, gánh nặng hôm nay xem như một cách đền ơn công sinh thành; còn đứa con trong bụng nó cần sự sống, nó không tội tình gì. Từ đó em thương mến nó vô cùng. Một đời người bắt đầu. Em không cần biết và không thể biết sự sống bắt nguồn từ đâu, nhưng biết nó đang lớn dần. Vì hoàn cảnh đặc biệt, người ta đưa mẹ và em đến một trại khác không chung với người cùng tàu. Em nói có thai ở VN và chồng em đi lạc khi khởi hành. Trại nầy cũng có những cây dương liễu như Songkhla. Mỗi ngày em nhìn các đọt xanh mà tưởng tượng sự lớn dần của đứa con. Vì vậy đặt tên nó là Liễu Hiên; mái nhà liễu phủ êm mơ. Em làm thơ có được không”?

Bà cụ lên tiếng gọi cháu. Mai vỗ vai con nói:
“Ngoại kêu kìa. Mẹ thương em lắm. Đến phi trường mẹ cười an ủi em bằng câu ca dao: trai đi có vợ, gái về có con; trời mưa lâm râm cây trâm có trái con gái có chồng đàn ông có vợ. À, anh nói ở cửa sổ phòng anh có cây trâm trái đỏ. Mẹ hát thế đó, chắc anh sẽ có vợ vì cây trâm đã có trái”.

Tôi đáp:
“Không đúng theo thứ tự ấy. Cây trâm ở nhà anh có trái sau khi anh đã có vợ. Em không biết anh đã có vợ và ba con”.
Mai làm ra vẻ lơ đảng nói:
“Anh độc thân mà, độc thân tại chỗ.

Tôi trở lại siêu thị Hoa Hinh cho Mai mua một món thiếu. Tôi ngồi nguyên trong xe đọc một tài liệu về người vượt biển. Quay người, tôi thấy Mai đã đứng ngoài nhìn vào; tôi vội cuốn lại, chuồi dưới ghế với vẻ luống cuống. Cô nàng tinh nghịch nói:
“Làm như đọc thư mèo bị vợ bắt được. Gớm, dấu kỷ quá sợ tôi đọc à?
“Sợ chứ, sợ em buồn cho số phận phụ nữ, cho …
“Cho em? Không đâu. Con Hiên đâu phải là con của hải tặc. Nó có cha mà, cũng người Việt như anh”.

Mai ngưng hẳn. Cho đến bản Stop, tôi gợi chuyện:
“Bấy lâu nay, cứ thấy Hiên là anh thương tủi cho con bé không bố và đau đớn cho em. Hôm kể như trên, em quên bốn chữ hạ hồi phân giải. Bây giờ xin phân giải dùm tôi”. 

Mai vui vẻ đáp:
“Câu chuyện bắt đầu bằng hải tặc, rồi không phải hải tặc mà rồi hải tặc. Lối hàng đôi nầy có thể làm anh đau đớn hơn chuyện trên.
“Tàu em may quá, đi năm ngày không sóng gió. Qua ngày thứ sáu cũng là ngày áp chót, một thuyền đánh cá Thái chận ghe em lại. Mọi người qua tàu lớn ngồi như tù binh. Lúc đầu họ cho bọn em ăn xôi, bánh, nước uống. Tiếp đến là màn lục soát trên người, nạp hết vàng bạc, đồng hồ v.v… Năm đứa có vẻ là cấp chỉ huy đi quanh, đám theo sau là một lũ lâu la cầm gậy cầm dao cười đùa nham nhở. Em ngồi trong góc nhìn ra phía trước. Khởi đầu chúng kéo ra khỏi hàng các cô gái trẻ tuổi, chúng tha những thiếu phụ có chồng con hay mang thai. So với những điều nghe trên đài phát thanh hay thư nhà, đám nầy còn nhân đạo hơn nhiều.
“Cạnh em là một thanh niên ngang tuổi. Trong khi em có ý định nói anh ta đóng kịch là vợ chồng, người đàn ông ấy tự ý xích lại gần, lấy tay xoa bụng em như để tránh cơn đau của bà bầu. May hơn nữa một cô bé chừng bốn tuổi ngả đầu vào chân em vì quen trong những ngày nằm chờ trên bãi. Nhờ đó bọn chúng tha em, cọng với mặt mày hem huốt đầy dầu máy, kết quả của những ngày siêng năng tát nước.
“Hôm sau tàu ghé đất liền lúc mới sáng. Em không nhớ mặt người thanh niên ấy rõ ràng vì những sự việc xẩy ra như ác mộng. Sau khi thỏa mãn dục vọng, hải tặc đuổi tất cả xuống ghe lúc nhá nhem tối. Lên bờ, chẳng rõ mộng thực ra sao. Em cũng không chú ý đến anh ta, phần còn lo cho mẹ. Ngày kế, vì có nét chữ viết rõ rệt, em làm danh sách theo lệnh của cảnh sát địa phương, em mới biết người đóng vai chồng em mặt mũi ra sao và mang tên Lê Hội. 
"Em đứng dậy lễ độ nói: ‘Cảm ơn anh đã giúp tôi qua cơn khốn khổ; anh thật thông minh quyền biến’. Hội nhếch cười nửa miệng rồi quay đi.
“Đoàn người đến một nơi gần biên giới Mã Lai. Quang cảnh giống như một làng ở Bồng Sơn Bình Định với rừng dừa dày chịt. Dân chúng theo đạo Hồi, nói tiếng Mã Lai, không ăn thịt heo. Sự hiện diện của phe ta tạo một niềm vui cho làng Panrapa. Lúc ấy trái mùa đánh cá, dân chúng nghỉ để sửa nhà cửa, sửa thuyền…Cả một thôn đến trường học nói tiếng quốc tế (ra dấu tay), cho thức ăn, quần áo, v.v…

Coconut Palms, Koh Samui, Thailand, Southeast Asia Photographic Print
rừng dừa ven biển Nam Thái
Hội là người đầu tiên mặc chiếc xà rông nhiều màu; chiều chiều dáng đâm chiêu nhìn ra biển trông rất triết gia. Thời gian sáu ngày trên đất liền, có lẽ không ai có một ý nghĩ gì về nhau, cái gì cũng nhấp nhô như còn trên sóng. Cả ghe được đưa về trại Songkhla. Trại nầy gom góp các nhóm nhỏ chờ đủ chuyến đưa về miền đông bắc theo chính sách mới của Thái. Songkhla trên đường tàn lụi.
“Mẹ bắt đầu đau trở lại nên em cũng được ở lại, còn 24 người kia cùng 500 đồng bào di chuyển đi Shikieu. Phần chẳng thân ai, phần đoàn xe khởi hành lúc mờ sáng, em không tiễn đưa ai. Từng nhóm nhỏ vẫn đều đều vào trại rồi lại đưa đi như một trung tâm mộ lính. Gia đình em vẫn ở tiếp cho đến hai tháng sau.
“Đến Shikiew em gặp Hội ở cổng vì anh là chức sắc trong trại. Người chồng năm xưa (?) đưa em đến một building còn trống, xách đồ đạt cho em rất ân cần. Sau đó Hội lo cho em đủ thứ, từ cái thùng xách nước cho đến chiếc chiếu v.v… Em rất cảm động, dĩ nhiên”.

Tôi đậu xe ở cửa để đem đồ đạt vào nhà cho dễ. Bé Hiên cũng khuân một xách. Tôi nhìn nó một cách hơi khác qua phần kể trên. Vào nhà tôi ngồi yên, chờ đợi câu chuyện. Mai vừa xếp các thứ vào nơi thích ứng vừa nói:
“Dạo ấy còn cái lạnh rơi rớt để qua mùa nóng. Bầu trời không tối lắm; quang cảnh nên thơ, thích hợp để chuyện trò. Những phiến đá trồi ra khỏi mặt đất biến thành những ghế đá mộng mơ nơi công viên trữ tình. Người ta rạo rực tình yêu; các cặp trai gái đưa nhau đi uống café ở gốc cây. Vì sao phải yêu nhau như thế, không yêu nhau có được không? Mà trông thật vui. Nhất là các cô, họ tươi vui ra, ăn mặc sửa soạn hơn làm mình cũng vui lây. Chả lẽ cứ buồn hoài, chả lẽ cứ ngồi than quá khứ mất đi, khổ đau trên biển. Cho họ sống một chút chứ”.

Tôi nói: “Đúng vậy, tình yêu là vế bên kia để quân bình với khủng hoảng, với lo sợ. Xin lỗi em nhé, nói cái nầy. Lính Lê Dương ngày xưa đi trận về là nhào ngay ra ổ điếm để trấn áp cái sợ vào sinh ra tử. Anh mở ngoặc đơn, dĩ nhiên không thể xem hành động đó là tình yêu, đồng hóa là mạ lỵ những kẻ yêu đương. Nhưng dẫu sao đó là một hình thái hạ đẳng trong một cảnh trí khác thường. Người vượt biển đã quá kinh hãi với sóng gió, với hải tặc cướp chém, họ cần một chút an ủi của tình yêu, có gì lạ đâu”.

Mai tiếp: “Mà em cũng yêu, yêu Hội; Hội yêu em; bọn nầy yêu nhau. Đơn giản như hai với hai là bốn. Bọn em lấy nhau. Lúc đầu mẹ cản. Bà chỉ nói vỏn vẹn là thấy có cái gì không ổn. Lúc ấy mẹ bệnh, bà nói: ‘Mẹ bệnh, mẹ sắp chết’. Người sắp chết thấy nhiều điều rất rõ nên em nói dối đã có thai và mẹ phải chấp nhận”.

Mai cầm con gà đông lạnh đưa vào vòi nước cho tan đá, rồi lấy dao gọt mấy củ khoai lang, bẻ đôi củ cà rốt đưa cho tôi một nửa rồi nói:
“Cà rốt ăn sống tốt lắm. Em sẽ nấu cà ri gà. Tiệc cưới của bọn em cũng chỉ có nồi cà ri gà như thế nầy. Ai chê đám cưới, ai cười đám ma. Tỵ nạn mà”.

Tôi nôn nóng nghe nốt chuyện hải tặc mà không hải tặc nầy nên cắt lời: “Còn mấy ‘mai’ (miles) mới đến nơi”?
“Anh còn ăn cà ri rồi mới về chứ. Mà em cũng kể nhanh cho rồi, đâu phải làm tiểu thuyết. Bọn em có con ngay năm đầu, con rất sớm, là con Hiên đây. Qua Mỹ là chạm ngay vào tường kinh tế gia đình. Trợ cấp chỉ đủ trả tiền nhà và sống mức tối thiểu. Hội bắt đầu gàn dở và uống nhiều bia.
“Với bản năng của người mẹ, em đi làm thêm, rửa chén ở một nhà hàng lãnh tiền mặt. Hy vọng thời gian sẽ làm Hội thích ứng với hoàn cảnh sống. Ai cũng nói với em rằng đàn ông chỉ có một công việc duy nhất là chán đời. Nhưng Hội bắt đầu yêu đời trở lại bằng cách yêu một người Phi Luật Tân. 

Vấn đề không phải chỗ đó. Ai cũng có tự do. Đàng nầy Hội tìm mọi cách gây sự để chứng minh em bê bối. Thoạt đầu chê em Mỹ hóa bằng cách mua mì lát thay vì mì ổ kiểu VN. Em đâu có bắt cả nhà ăn mì thế cơm; mì nầy mềm cho mẹ, và dễ làm sandwich đem theo không bách tách. Chuyện không có gì mà làm ra khổ quá. Vẫn chuyện bếp núc.

“Một hôm ba ông bạn kéo về ba chai Napoléon. Em phải nấu mồi cho bắc. Ngoài cá khô nướng là gà nấu bia. Vì gấp đi làm em mở lửa lớn, nước sôi làm các thứ bị bấn. Ông xã em tận dụng óc khôi hài, bỏ vào máy xay trái cây nghiền nát. Hai ông bạn cười đắc chí rồi đứng dậy đi mua giò heo về nấu giả cầy.
“Em cố làm lành bằng cách bỏ buổi làm chờ hai ông kia đem thịt về nấu. Ông bạn thứ ba, nãy giờ không có ý kiến gì, nói tiếng Pháp với chồng em là bảo em đi làm, nếu không em sẽ phá nồi giả cầy. Ông tưởng em không biết; em còn biết ông nói sai văn phạm nữa. Em ngán ngẩm ớn tận cổ. Để chứng tỏ em biết điều người Paris ấy nói, em vẫn ở nhà không đụng tới cây dao cái thớt, mặc cho bốn vị Lưu Linh trời trăng mây gió”.

Mai ngồi cúi mặt lúc lâu. Tôi vẫn giữ im lặng, không nhúc nhích. Cô nàng đứng phắt dậy, chạy đến bếp và nói lớn:
“Ôi thôi rồi; cái nồi cà ri nầy cũng nát như nồi gà nấu rượu, em chẳng hay ho gì; chồng la, bạn chồng la là phải rồi”.

“Chẳng sao, khách khứa hay cúng kiến gì mà lo, có nhừ thì mẹ Mai dùng dễ, cháu Hiên cũng thế. Còn anh thì răng cấm rụng gần hết. Mấy năm trong tù không dùng cái răng thì răng rụng mới phải”.
“Miệng anh dẻo như kẹo kéo, tán gái mềm môi”.

Nồi gà đưa ra bàn với ổ bánh mì kiểu VN. Tôi và Mai cùng ăn. Bà cụ chưa đến bữa; còn Hiên ngủ khì giữa nhà. Mai nói:
“Không đến nỗi bấn lắm anh nhỉ. Em kể tiếp. Đến chín giờ tối, họ vẫn còn khề khà. Lo xong cho mẹ và con, em vào phòng ngủ; ngán ngẩm cho cảnh đời; chồng như thế, bạn chồng như thế. Còn đâu cái dáng triết nhân của Hội trên đất Nam Thái, còn đâu những sự ân cần trong trại. Kiểm điểm thời gian quen nhau đến nay, em thấy không lỗi gì.
“Em đứng dậy bật đèn nhìn mình trong gương. Em già đi. Ở bên nhà, ở bên trại, ăn uống thiếu thốn, qua đây công việc bề bộn, không tiền son phấn và áo quần. Lỗi em? Đáng lẽ Hội lo điều đó cho em. Hay vì mẹ cản? Không, Hội không biết điều đó. Hay vì thái độ im lặng của em từ khi chồng dỡ trò khó chịu. Hay chồng em cần cải lại để có dịp tuông ra những bực tức gây nên từ những mặc cảm; đến nay chỉ một đài phát thanh của Hội. Hay Hội cần em to tiếng để đánh em hầu thỏa mãn, trả thù những oan ức mà Hội có thể đã gặp trong những ngày qua”.

Gió thổi mạnh, cánh cửa mở tung. Mai đến đóng lại. Vừa trở về bàn ăn, cô nàng tiếp:
“Cửa mở thế nầy, cửa mở thế nầy đêm hôm; gió lạnh say rượu thì trúng gió. Suy nghĩ miên man, em ngủ hồi nào không hay; thức dậy đã gần sáng, em đi ra phòng khách, cửa mở thế nầy, gió ùa vào. Chồng em nằm trên sofa, hai người kia giữa sàn, còn ông nói tiếng Pháp không thấy đâu. Đi mà quên đóng cửa chăng? Bậy quá. Trộm cắp như rươi, khu nầy mà. May nhà chẳng có máy móc gì. Say rượu trúng gió rồi chết trong nhà thì khổ cho em.
“Chén đủa, chai lọ, thức ăn vung vải. Từ thùng rác bốc ra một mùi tanh ói, phòng vệ sinh dơ dáy. Dọn dẹp mệt quá, nhưng chán hơn nữa là cảnh hai người đàn ông không quen nằm chàng hảng chề hê, giày dép còn nguyên trong chân. Em không biết nói làm sao. Mẹ em ngủ dậy trưa mà mắt lại không rõ, con Hiên thì còn nhỏ. Thôi, chỉ để mình em thấy cảnh nầy”.

Tôi vẫn giữ im lặng, tiếp tục ăn. Tôi hết sức cẩn thận, không tỏ một thái độ nào về Hội vì Hội là chồng Mai. Cần cẩn thận, lời nói có thể sai lệch vì quả thật tôi đã mến Mai với mức độ tăng dần. Để làm nhẹ bầu không khí, tôi đùa:
“Ăn đi chứ. Anh ăn xong rồi đấy. Em chỉ nói mà quên ăn. Cà ri ngon quá”.
“Cà ri như nếp nát. Anh lịch sự có thừa, em mừng anh đã không bỏ cả nồi vào máy xay trái cây như chồng em. Em pha cho anh một tách café nhé. Café Pháp kiểu VN, có cái nồi ngồi trên cái cốc. Dạo trước em mua café bột cho tiện; Hội chê em Mỹ hóa cũng như chê em mua mì lát.
“À, tách café. Em dọn xong nhà cửa, ba ông ma men vẫn còn vui trong giấc ngủ. Em tự tìm một niềm vui, dù giả tạo. Em bỏ café vào ba cái lọc để sẵn trên bàn; lấy sáu quả trừng để trên bếp cho bớt lạnh, lấy giấy bạc gói ba khúc bánh mì bỏ trong lò nướng. Chén dĩa, muỗng nĩa đủ cho ba thực khách.
“Một ông khách thức dậy trước kéo hai người kia dậy. Lúc ấy đã chín giờ. Em bảo Hội có sẵn ba khăn tắm và mời các ông sử dụng tiện nghi trong nhà. Hội vào rửa mặt trước. Khi cả ba người đã ra ngồi đủ ở phòng khách, ấm nước đã sôi. Vừa rót nước vào bình lọc, em nói: ‘Mời các anh. Hôm qua chắc chẳng ăn gì; để em chiên trứng dùng tạm’. Không ai ư hử môt tiếng. Mở cửa tủ lấy chai dầu thì em nghe một ông khách nói: ‘Thôi, mình đi ra Croissant Doré; thằng quỉ gì, thằng Tâm, đang chờ. À mà trưa nay còn đám đầy năm con lão Bách’.

“Hội đi vào bếp bảo em đưa hai chục. Em vào phòng; Hội đứng ở cửa. Lục lọi trong ví không tiền; sau rốt lẫn trong xấp food stamp còn một tờ mười và một tờ năm. Em đưa Hội tờ lớn nhất, giữ lại năm đồng. Hội vẫn đứng không đi. Một cảm giác đau đớn chạy khắp thân thể. Năm hôm nữa tiền xã hội mới về. Dạo ấy em chưa vẽ cho bà Mỹ; hôm trước đó em còn mấy chục thì đóng bát hụi một trăm. Một bà mẹ trong nhà với một đứa con nhỏ, chỉ có năm đồng và xấp food stamp. Hơn ai hết Hội biết rõ hoàn cảnh gia đình.
“Đó là hành động cuối cùng, giọt nước tràn ly, làm em mở miệng. Em cố giữ nước mắt vì sợ Hội hiểu lầm. Em nói nhỏ nhẹ, như tự nói cho mình nghe: ‘cứ như thế nầy thì không thể ăn ở với nhau’. Hội chỉ gật đầu nhưng vẫn đứng yên. Tự nhiên em thấy thương con người đóng kịch là chồng trên tàu cho em khỏi bị hải tặc.
"Người chồng giả cao thượng ấy đã thành người chồng thiệt đối đãi với em thế nầy. Chẳng hiểu sao em đưa nốt tờ năm đồng còn lại.
“Hội đi không chào em. Hai người kia có vẻ kiểu cách với hai chữ chào bà, cái kiểu cách kỳ cục so với thời gian trong nhà em. Họ đi rồi; em ngồi thừ xuống ghế. Trước mặt, những giọt café còn rơi xuống ly thủy tinh. Những giọt cuối cùng nên rơi chẫm rãi và nước mắt em cũng rơi xuống như những giọt café kia. Em khóc cho chính em và khóc vì niềm vui nhỏ vừa rồi chỉ phí công.”

Mai đưa tay xoay ly café trước mặt tôi nửa vòng như nâng niu, rồi cúi đầu đưa mặt gần, nhìn kỷ những giọt nước đen đang rơi. Những giọt nước mắt của Mai cũng rơi theo. Đưa tay chùi mắt, nàng nói:
“Lần trước em khóc vì đau đớn ê chề, lần nầy khóc vì vui, pha café có người chờ uống. Cảm ơn anh. Em mua lon café nầy từ ngày anh đến nhà chơi. Em nhớ anh có làm bài thơ về quán café. Hôm nay anh có làm thơ không? À, ít tuần sau chuyện café không người uống vừa kể, em có đọc một bài thơ về café của anh trên tờ báo, em cho nó dở ẹt. Em chê ba ông thi sĩ, nhà văn chỉ bềnh bồng, không thấy ly café chua chát của em. Em chê anh có buồn không?"
“Có gì mà buồn; nhưng hy vọng đọc lại em sẽ thích khi có người uống café”.

Café đã hết giọt, Mai vẫn ngồi yên không nói. Khối nước đen tuyền trong ly trắng tinh như cái gì sâu thẳm đủ sức hàm chứa nỗi bao la tâm tưởng, như mắt nhung đen. Mai chống tay lên má, tiếp tục nhìn ly café lắng yên. Mắt Mai như rơi thỏm vào khối nước đen kia.
Mai trông triền miên, tươi hơn nhiều so với ngày tôi mới quen cách đây hai tháng. Mai mặc chiếc áo mới. Tôi sực nhớ nhận xét của Mai về các cô trong trại Shikiew tươi vui với tình yêu mới. Mai từ từ lấy tay ra khỏi má và từ từ gục đầu để nguyên mái tóc trên khăn trắng. Gió thổi đưa một phần tóc quấn ly café. Mai ngẩn đầu dậy ngơ ngác như từ một thế giới khác đến, nhìn tôi rồi nhìn ra ly café mà nói:
“Sao anh không uống? À em quên lấy đường”.

Cảm nghĩ của tôi lúc ấy, mọi người mọi vật đều tan biến, chỉ có ly café ở thế độc tôn. Mai thêm nước sôi và lấy thìa khuấy tan đường. Bé Hiên thức dậy. Mai bồng đến bàn và múc cho con một tô cà ri. Tôi nói:
“Cà ri cay sao nó ăn được?”
“Nó con hải tặc Thái Lan mà. Thái Lan ăn cay nhất thế giới. Em kể nốt câu chuyện. Mà đến đâu rồi?”
“Đoạn ba ly café và em tìm ra mười lăm đồng trong xấp food stamp”.

Hôm ấy Hội đi luôn; không điện thoại cho em. Em dửng dưng có thừa vì đã biết có ngày như vậy. Gần hai tháng sau, cháu của Hội đến lấy áo quần, vật dụng đem về cho cậu. Em nghĩ đó là lối nói khéo xác nhận việc bỏ đi. Đến thế là cùng. Được, em lấy cái va li còn ghi địa chỉ của người bảo trợ, bỏ tất cả các thứ vào. Bỏ một cái áo vào, em thấy mình bớt nặng. Em hăng say.
“Nhưng em khựng lại khi gặp ở tận hộc tủ, anh biết không? cái xà rông người ta cho ở đảo còn giữ làm kỷ niệm. Em đau đớn ngồi phạch xuống đất như xây xẩm. Cầm nó trong tay khó quyết định giữ hay bỏ vào va li cho Hội.
“Cái xà rông Hội quấn ở làng Panrapa, mỗi chiều đứng bên hàng dừa nước, dáng rất triết nhân. Cái xà rông ấy là hình ảnh đầu tiên cho em thấy sự lưu đày, sự xa xứ. Đến một nơi phải mặc xiêm y của người; ra đi trần truồng, trút bỏ những gì đã móc lên mình và đã thành một phần đích thực của đời mình như thôn xóm, trường học, những món ăn quen thuộc, mồ mã … Chiếc xà rông trên con người đã cứu em khỏi tay của những gã cũng mặc những chiếc xà rông như thế khi tàu em gặp nạn. Chiếc xà rông còn đây nhưng con người năm xưa không còn nữa”.


Southern
Xà rông cổ điển Nam Thái
Mai kể làm tôi nhớ mình cũng mặc chiếc xà rông như thế. Vào lần cướp thứ bảy, tôi chỉ còn trên người chiếc áo thun và cái quần xà lỏn; một tên hải tặc đã soát xét chiếc quần của tôi tận trong lai, xé rách các đường may để tìm vàng và dollars; không có gì cả, hắn bực tức ném xuống biển. Lên đất liền, họ cho tôi cái “quần một ống” ấy. Nhưng tôi không thấy ý niệm mặc xiêm y của xứ người như Mai nói. Thật ra đó chỉ là một trong muôn ngàn cách nói về sự lưu lạc. Tôi thấy buồn thấm thía, nhờ vậy không nôn nóng chờ hết câu chuyện. Mai tiếp:
“Anh ạ, em giữ chiếc xà rông, lưu dấu một thời Hội thương yêu em và em đáp lại. Em đã dâng hiến cuộc đời cho một người em kính trọng, em mang ơn. Có hôm em lấy chiếc xà rông đắp lên mình con. Tấm vãi ấy có thể mất đi, nhưng lưu dấu thứ hai nằm bên dưới vẫn còn mãi, lớn dần; bé Hiên. Nó sinh ra một thời em thấy yên ổn bên người chồng, khởi đầu giai đoạn mới sống trên xứ người. Bây giờ em phải đi nốt đoạn đường của em”. 

Tôi cắt ngang: “Một trong những lý do chính của khổ đau đời người là bám víu vào những điều không thường tồn, cái vô thường”.
“Không, em không đủ sức bàn luận những điều như vô thường…Em chỉ nói em đặt để cuộc đời em vào điều em thấy không có thực. Điều gọi là tình yêu của Hội dành cho em chỉ là bất thường”.
                                        ***
Những cây palm ở đây không cao, không lạc lõng trên không như ở Los Angeles hay Van Nuy. Lũ palm đứng kề nhau như rừng dừa ở bãi biển Mỹ Khê, Quảng Ngãi. Mùa hè nên sáu giờ chiều mà vẫn còn sáng, tôi ngồi trên bãi cát Pacific Beach. Bé Hiên ở mãi bờ nước, đùa chơi với quả bóng lớn bằng ngực. Mai ngồi bên tôi trông chừng con. Tôi lượm những cây gỗ lép trong những cây kem người ta quẳng xuống đất, vẽ trên mặt cát những vòng tròn móc vào nhau như dấu hiệu Thế Vận Hội, nhiều hơn, to nhỏ không đều nhau. Mai đưa tay xóa hết tác phẩm hội họa của tôi, rồi vẽ những đường thẳng cho đến khỏi tầm tay. Nàng nói:
“Sao không vẽ những gì suông sẻ mà vòng vo làm gì cho khổ trí”.
“Muốn vòng vo thì nó vòng vo; muốn thẳng thì nó thẳng. Đường thẳng và vòng tròn chỉ là một, nếu đặt trên một tầm mức rộng lớn. Những gì đã xong trở lại về gốc rễ ăn sâu tự ngàn xưa, còn trong dòng thời gian miên viễn như con rắn cắn đuôi”.

Mai ngẫm nghĩ rồi gật gù:
“Đường thẳng mà vòng tròn nghe nó ra sao nhưng Hội ra đi là đường thẳng rồi trở về là đường cong. Phải rồi, Hội trở về, em nói cho anh nghe. Em vẫn là vợ chứ gì. Có gì người ta vẫn kêu em. Nói tầm bậy như giả dụ Hội chết, con nầy cũng phải lo chôn. Em không biết anh đi đâu; đứa cháu đến lấy quần áo rồi đi luôn. Còn em thì như què. Lúc ấy đã tối, Hội trở về. Bé Hiên mừng bố, trẻ thơ thì vậy nhưng em vẫn lạnh lùng. Mặt chồng em bơ phờ, anh không nói năn gì. Em đoán Hội thẹn không nói ngay ý định trở về. Em mời ăn cơm cũng không đáp. Thức ăn còn trên bàn, đơn giản, tí cải chua, một dĩa cá kho và hột gà chiên. Em không đủ nồng nhiệt để ra góc đường mua chai bia. Lễ lạc với người chồng bạc bẽo như thế đã đủ lắm rồi.
“Mùa hè loay hoay đã chín giờ. Bé Hiên đã đi ngủ. Em thật khó xử, không lẽ đuổi Hội đi, đâu đến mức cạn tào ráo mán. Khó xử hơn là Hội ngồi ngay cạnh đống áo quần em nhận kết nút ngày mai phải giao. Em đành nằm nghỉ, ngày mai rồi tính”.

Tôi dặm vào: “Thì ra đó mà khâu mà vá. Muốn nói chuyện thì nói, còn không thì nín thinh. Ông có ăn thịt ăn cá gì cô; đâu phải cọp beo mà sợ bị nhai bị nuốt”.
“Có chứ, Hội ăn thịt em mới rắc rối thêm. Anh nói thế cũng có lý. Việc mình mình làm. Em chán nản làm sao, rồi con ma làm biếng giữ em mãi trong giường, mơ màng ngủ hồi nào không biết. Hội đột nhập gia cư, tấn công như vũ bão. Nói thật với anh, lâu ngày không gần đàn ông, em hoàn toàn bị chi phối bởi luật âm dương. Nhưng cuộc gặp gỡ hết sức bất thường, nó không có tính chất vợ chồng.
“Em chỉ là một thân xác như bất cứ thân xác nào. Mà còn tệ hơn nữa, còn thua lỗ. Một người đàn bà bán mình biết rõ bên kia là ai, hành động với tư cách nào, tiếp đến họ có chút tiền, giao kèo, giao ước đã làm xong. Còn đàng nầy, em vẫn xem Hội là chồng dù tương giao trắc trở. Sự thật không như em tưởng.
“Khoái cảm chốc lát chỉ làm thời gian còn lại thêm rùng rợn. Dưới mắt Hội em là thứ gì? Mua vui một chốc không mất tiền. Anh nói lính Lê Dương sau trận đánh ùa vào xóm bình khang. Không lẽ đây là ông Lê Dương và nhà em là ổ điếm”.

Mai nhìn xuống đất. Tôi đoán qua nét mặt Mai không thẹn vì kể chuyện chăn gối nhưng bực bội nghịch cảnh. Trước mắt chúng tôi các cặp trai gái trong áo quần tắm ôm nhau hôn nhau ra riết. Tôi ngồi yên cho câu chuyện qua đi, phần muốn hưởng một buổi chiều nắng, phần vì không rõ những uẩn khúc. Những sự việc như vậy không đơn thuần trong một lúc duy nhất; trên chuổi dài, cái nầy kéo qua cái nọ như từng lớp sóng. 

Mai tiếp: “Sau trận mây mưa chớp nhoáng, Hội ra về, đóng dập cửa. Đó là lần cuối cùng vợ chồng gặp nhau. Đã phụ phàng nay lại thêm phũ phàng. Điều quan trọng xẩy ra trong đầu em là người cứu em khỏi bàn tay hải tặc đã thực sự là hải tặc; em xem Hội đã cưởng hiếp em, còn những phản ứng cơ thể của em chỉ có tính chất phản xạ. Hải tặc, quân cướp biển. Chính vì vậy em nói với anh bé Hiên là con hải tặc”.
“Em hồ đồ, à xin lỗi, mâu thuẩn đấy nhé. Bé sinh vào lúc vợ chồng em hạnh phúc trong trại. Hôn nhân của em êm thấm; chỉ trừ mẹ phản đối mà Hội cũng không biết điều đó. Không nên làm cho vấn để rắc rối thêm. Kể ra em xem Hội như hải tặc cũng hơi nặng tay. Sao em không chịu tha thứ mà chận hết ngõ về, ngõ về của chính em và của chồng em. Chuyện vợ chồng nên nói vô, không ai nói ra. Em là người có thể làm điều đó”.

Mai quả quyết và có phần đanh đá:
“Không đâu, Hội xem em như miếng thịt bò hay hình nộm đổ nước ấm phồng lên, ôm ấp cho đỡ ghiền”.
“Em cũng biết mấy thứ ấy à?”
“Đừng làm em mất dòng ý tưởng. Không kể nữa đâu. Mà sao anh biết em đủ sức mở một ngõ về?”
“Em thông minh. Có lần em cho rằng sự im lặng của em không cho Hội có dịp tuôn xả những bực tức dồn nén, em nói chỉ có một đài phát thanh là của Hội. Đi xa hơn tý nữa thử xem. Biết đâu em vô ý đã làm điều gì động chạm đến phần thâm sâu nhất trong đời Hội, có thể chính Hội cũng không rõ nữa. Hay Hội không tin em yêu thật, chịu làm vợ để cảm ơn nghĩa cử trên tàu khi gặp hải tặc, trong lúc em vọng đến một kẻ cao sang hơn. Chỉ ví dụ thôi.”
“Nói vậy có trời mới biết. Em yêu thật. Có gì sai quấy nếu tình yêu khởi đầu bằng sự cảm ơn. Nếu đã anh hùng thì đi luôn, cần gì trở lại chụp giật, gạt gỡ.
“Từ ngày đứa cháu đến lấy áo quần, em không còn uống thứ thuốc 28 viên mỗi tháng; nên em … có thai sau lần đó. Ý nghĩ phá thai ám ảnh em, em không muốn có con với hải tặc. Em tự cho cái quyền phá thai như các cô gái gặp nạn trên biển”.

Tôi kinh hãi đang ngồi bên cạnh một thiếu phụ duyên dáng có một quyết định ghê gớm. Quyết định chấm dứt cuộc sống của một thai nhi vì một căn cứ không có gì vững chắc, nếu không nói là vô lý. Cái gọi là hải tặc nơi Hội sau cuộc giao tiếp mà nàng cho là hiếp dâm. Về tư tưởng, nó giống quyết định tiêu diệt một nhóm người, nhân danh sự độc tôn chủng tộc, nhân danh cách mạng vô sản v.v… Tất cả xuất phát từ tâm, từ vọng tưởng cấu hợp vì duyên khởi mà thực chất là huyễn. Phán cho chồng hai chữ hải tặc để chấm dứt đời sống măng non trong bụng. Lực là thế, tác là thế, nhân là thế, duyên là thế ….
Đầu óc tôi chứa đầy những hình ảnh tù đày, những phim về người Do Thái, về cuộc thảm sát Kampuchea, tất cả vì vọng giả như kiểu Mai đối với người chồng. Do đó tôi không hỏi từ đâu cô nàng quyết định phá thai trước khi nói rõ bé Hiên có bố VN. Mai tự ý giải thích như sau:

Nói vậy chứ thực hiện khó lắm. Trở ngại nhất là tìm đâu ra ông chồng để ký tờ thỏa thuận; tiếp đến nhiều thứ nhiêu khê. Em suy nghĩ về kiếp sống của đứa bé trong bụng, nó không tội tình gì. Em thấy mình không bằng một thiếu nữ trong trại Songkhla cùng tên với em; Mai nhỏ hơn bốn tuổi.
“Ở trại nầy, cơ quan phụ trách y tế là Médecins Sans Frontières. Vì biết chút tiếng Pháp, em lên bệnh viện thông dịch ọ ẹ, mỗi ngày được trợ cấp mười baht của Thái (giá một tô hủ tiếu). Dịp nầy em quen Mai, vì trùng tên nên thân nhau.
“Hôm đứng nhìn hàng cây xanh gần nhà, em nhớ lại chuyện của Mai. Hàng liễu xanh cho Mai thấy cái gì linh thiêng cao mãi vời cao, những cây liễu đang sống như đứa bé đang sống dưới lớp da bụng. Cô đã nhất quyết từ chối với bác sĩ người Pháp. Cũng như Mai kia, Mai nầy bỏ ý định phá thai. Chuyện của (Bạch) Mai em kể anh nghe và ngụy tạo là trường hợp của em để xí gạt anh”.

“Thế thì đứa con đâu rồi, không lẽ cho làm con nuôi”?
“Từ từ cái đã. À nói cho xong. Ba tháng sau em nóng sốt và hư thai. Thế là xong việc. Phá thì không ổn, đẻ con ra nuôi khó lắm mà nó ra đời không có gì ưng ý. Đến đấy anh rõ vì sao em nói bắt đầu từ hải tặc, rồi không phải hải tặc mà rồi hải tặc. Biết đâu anh có thể dùng nó viết một truyện ngắn, thêm mắm thêm muối là đủ. Nhớ đừng đề tên em”.

Tôi đáp: “Lối kể chuyện của Mai hấp dẫn; có máy ghi lại viết ra là đủ, cần gì thêm mắm thêm muối. Nếu em viết văn thì hay lắm. Nhưng đây là chuyện đời nên không thể đóng kết như vậy. Có cách gì em xóa ý tưởng (Hội là) hải tặc không? Chính nó là một ngõ cụt, một bế tắc; chính em phải khai thông. Em tự kiềm hãm em trong một giới hạn. Vì một ý niệm em áp đặt cho em, em đã đến gần quyết định chấm dứt cuộc sống của đứa con trong bụng. Tâm của em đã bị khống chế. Rồi lực xuất phát từ đó, tác từ đó; nhân, duyên, quả, báo đều qui hội”.
“Ông lại giảng kinh Phật cho tôi chăng, khổ quá, khổ đã nhiều rồi”.
“Nói động một tý là nhảy đựng nhảy đột. Tôi không phải là Phật, chẳng tu hành gì. Mà Phật làm gì có một người đẹp như Mai để nói chuyện bên bờ biển. Anh chỉ thấy một cái gì không ổn.”
“Ổn chứ. Chồng em bỏ nhà ra đi. Khỏi bị hạch xách, khỏi thấy cảnh mấy người lạ nằm ngủ chàng hảng giữa nhà vì quá say. Em yên ổn lo cho mẹ và con. Nói thì bần tiện nhưng bớt đi một miệng ăn, tuy ăn uống bên Mỹ không khó khăn như bên nhà. Anh lúc nào cũng triết lý”.

Xa xa là những chiến thuyền hải quân Mỹ màu xám di chuyển chậm chạp. Gần bờ hơn, những chiếc thuyền buồm nhiều màu sắc nhởn nhơ theo sóng. Một chiếc tàu chở khách nhàn du chạy bằng bánh xe như thuở dân Mỹ mới đến đi trên sông Tennessee. Thanh bình ngự trị. Trên bờ của biển nước ấy là quận hạt San Diego, dưới con mắt của Mai, một hải tặc đã xuất hiện. Cấu tạo ý tưởng đã biến vùng đất khô thành Vịnh Xiêm La mà Mai trong thực tế đang hụp lặn tuy cô nàng cho là yên ổn. Đó là ngõ cụt của thiếu phụ duyên dáng ngồi bên tôi

Tôi hỏi: "Em có thù hận Hội hay không?”
“Không, không, thù hận cái gì? Sự việc đã ngoài tầm tay”.
“Có, sao mà không được. Chữ hải tặc đã nói lên đầy đủ lòng căm hận ấy. Cây nhân sinh không thể tưới bằng căm hận”.
Mai cười mỉa mai: “Cây nhân sinh, cây nhân sâm chứ, bán thiếu gì ngoài tiệm thuốc bắc, cần gì tưới. Anh là đàn ông, không thể hiểu đàn bà. Đàn ông bao giờ cũng bênh vực đàn ông. Dưới con mắt đàn ông, đàn bà là cái gì xấu xa, kinh tởm, họ tự cho mình là những nhân vật trong Thủy Hử chỉ khổ vì đàn bà. Anh chẳng khác gì. Gớm nhỉ! Làm sao anh hiểu được đàn bà.
                                
***
Tôi hiểu chứ nhưng Mai đánh phủ đầu như vậy tôi chỉ ngồi yên chờ cơ hội khác cũng như không muốn nàng cụt hứng. Tôi hiểu chứ. Tôi không sống với mẹ, mẹ chết vì nhiễm trùng khi sinh tôi. Bố tôi cũng chết lúc loạn lạc sáu năm sau. Mấy chị em nằm trong sự bảo trợ của nhà ngoại, nói rõ là người dì chồng chết sớm không tái giá. Đó là người đàn bà vĩ đại nhất trong thế giới thu nhỏ trực tiếp đối với tôi. Trước mắt tôi là một biển lớn; tôi đem cái to tát ấy làm cái to lớn của ân đức người đàn bà ấy dành cho chị em tôi. Đầu óc tôi nhỏ bé không thể hồi tưởng những phút cơ hàn, những giờ sinh tử trong cảnh chiến tranh giữa thập niên 1940 nhưng quá khứ dồn tới như những lớp sóng.

Tôi chán nản không muốn nói chuyện với Mai. Cả hai đi vào những suy nghĩ riêng, hay đến chỗ bế tắc đụng phải những vấn đề tổng quát như đàn ông, đàn bà, ai tiểu nhân, ai quân tử, những câu hỏi với những giải đáp không chính xác. Tôi luôn tránh những nhận xét rộng lớn như thế. Theo tôi, Mai chỉ có một vấn đề là người chồng phụ bạc mà nàng ghét, xem như hải tặc.

Tuy chú tâm đến từng con người một, tôi luôn đặt sự việc trong một chuổi dài của sự kiện, trong sự liên hệ chặt chẽ giữa các yếu tố nhiều khi xa quá cuộc đời hiện tại. Tôi muốn nói trùng trùng duyên khởi theo cách nhìn Đông Phương. Chính vì vậy Mai mới là người hiểu câu chuyện rõ ràng nhất, nhưng tôi muốn Mai nhìn rộng lớn, không giới hạn trong một ý niệm đơn thuần.

Mai lấy lược chải tóc rối bù vì gió biển. Những sợi tóc dài suông sẻ như dòng sông cho ánh sáng chảy dài, làm lối đi cho nắng chiều. Nàng búi cao, dùng cây viết Bic làm trâm cài ngang. Gọn gàn hơn, trông thông minh hơn nhưng cũng đanh đá hơn. Tôi nhìn cái cổ cao, tương xứng với đôi vai phần nào mảnh mai. Tôi nghĩ nếu Mai cắt kiểu ‘garcon’ thì đẹp lắm như một nữ sinh trung học. Nhưng tôi buột miệng nói:
“Mai nầy, nếu em làm ni cô thì đẹp lắm vì để lộ cái cổ xinh đẹp”.
“Anh rõ là đàn ông. Biết tôi có chồng có con, ông mới tán kiểu ấy. Với các cô thì nói cắt cao mặc áo thun. Lúc trước có cô nào thất tình với anh rồi đi tu sao?”
“Cô quí mái tóc lắm sao?”
Mai cười gằn:
“Cái răng cái tóc là gốc con người. Đàn ông lo sói tóc, đàn bà lo gội đầu; xem TV thì biết bao nhiêu thuốc shampoo, bao nhiêu tiệm uống tóc. Anh có dám cạo trọc đầu hay không? Một chút đó thôi cũng rõ anh không thể hiểu đàn bà và sẵn sàng bênh vực đàn ông”.

Tôi biết chứ, ít nhất trong thế giới nhỏ bé gần gũi với tôi, với những sinh hoạt bình thường, giới trung lưu. Tôi tủm tỉm cười. Mai áy náy hỏi tại sao. Đợi một hồi lâu tôi mới mở miệng.
                                
***


Sau hơn hai năm từ ngày thăm nuôi lần đầu tiên và duy nhất, tôi thấy nhà tôi lúng túng với đầu tóc. Tóc dài chứng tỏ đã lâu không cắt mà bà không còn ở cái tuổi để mái tóc kiểu học trò Đồng Khánh quá nửa lưng; cũng không thể búi như các thiếu phụ đứng tuổi. Sự thiếu chải chuốt ấy biểu lộ cuộc sống không ăn nhập vào dòng đời chung, nói khác biểu lộ cung cách của người vợ có chồng đi trại tập trung, biểu lộ đời sống nội tâm và kinh tế gia đình.

Tuy không được phép về Saigon mà phải trình diện ngay ở xã ấp, tôi về bừa nơi sống cũ với gian nhà khiêm tốn vừa mua một năm trước khi đi tù. Nhà tôi tay cầm cuốn sổ đưa tôi đến nhà ông công an khu vực. Bà trịnh trọng nói: ‘Thưa ông, đây là chồng tôi đi học tập mới về, xin ông cho tạm trú ít ngày’. Tôi lạnh cả người. Thứ luật pháp ban sáng ở Tây Ninh họ bảo tôi phải tôn trọng khi thả tôi ra sao mà lạnh thế. Cái nhà của tôi, vợ chồng tu bổ, thu gọn chỗ nào để than, chỗ nào để củi, nay tôi trở về vợ phải đi xin phép. Đó là luật nhưng tôi không phải là luật gia.

Kèo nài mãi mới được phép năm ngày trong thành phố mang tên mới. Nhà tôi phải nói rõ sắp xếp công việc đưa cả nhà đi vùng kinh tế mới. Điều đó có nghĩa giao căn nhà cho cách mạng, thi hành sự thỏa thuận trước để cho chồng về.
Bọn tôi phải chùng lén gỡ mấy tấm thiếc sau bếp, chuyền qua nhà người quen. Nếu biết họ sẽ ghép tội phá hoại. Đồ đạt không có gì quí giá nhưng phải tống táng cho xong, còn không thì biết để đâu mà thuê xe chở về cái chòi tranh thì vô lý quá. Cái giường gỗ cũng tháo banh bó lại chờ người đến lấy.

Bên dưới tôi phát giác dăm bảy thùng giấy. Tôi nhấc lên thì đáy đã mục, đổ tháo những cuốn sách quen thuộc. Tôi chợt nhớ chính tôi đã để những thứ ấy dưới chỗ nằm vì các kệ sách đã đầy. Nhờ vậy chúng còn lại sau chiến dịch thu đốt sách báo văn hóa đồi trụy. Tôi hỏi tại sao nhà tôi không bán ký; bà im lặng và bảo tôi cứ mang đi, về sau mối ăn hết.

Chòi tranh của tôi chiếm nửa trái đồi và có hơn một mẫu đất khô, cạnh con suối nhỏ. Phong cảnh hữu tình nhưng không có lòng dạ nào mà thưởng thức. Tuy vậy phải vén khéo cỏ rác để khỏi rắn rít và cháy về mùa khô. Sau một tháng đặt chân vào vùng đất mới, khi tôi đang đắp cái thành đất quanh cái giếng dưới triền, ba đứa con chạy xuống vừa cười vừa la: ‘đầu thầy chùa nấu canh chua ba bốn ngày còn chua’. Tôi rầy chúng vì sợ mích lòng mấy cô bên chùa liên ranh.
Chúng cho biết nhà tôi xuống tóc vì có khấn vái cho tôi được trở về. Đã xế chiều nên tôi cầm cây cuốc đi lên. Nhà tôi ngồi bên đống khoai mì, đầu chít khăn nâu như một nhà tu. Thằng út chạy  lại vo cái đầu trọc rồi hát nữa: đầu thầy chùa nấu canh chua ba bốn ngày còn chua.

Tôi phải kể cho Mai dài dòng về quảng đời trên vì đường về còn xa mà xe đông lắm. Tôi muốn Mai hiểu rằng cần nhìn sự việc trong những hoàn cảnh riêng rẻ mà không gói trọn trong những ý niệm tổng quát. Tôi muốn giải thích rằng tôi hiểu đàn bà, ít nhất hai người trong cuộc đời tôi, dì và vợ. Tôi không về theo phe đàn ông.
Từ hôm tiếp xúc với Mai trên bãi biển, tôi có ý nghĩ hơi khác về phụ nữ. Nói vậy đã là bậy vì rơi vào trường hợp tổng quát như đã chỉ trích Mai. Tuy nhiên tôi vẫn cho rằng đàn bà dứt gánh rất dễ dàng, có lúc tàn nhẫn nếu không nói là cố chấp. Nhưng mặt khác sự chịu đựng, nhẫn nhục nơi họ không ai chối cải.

Tôi đến thăm Mai thưa dần vì không muốn xuất hiện vào lúc giao động mà đôi bên trong cuộc tưởng như đã xong. Với Mai, tôi chỉ ghi nhận. Tôi thật lẩm cẩm cứ xem cuộc đời của Mai khốn khổ hơn mình.  Không đúng thế, tôi còn khổ hơn Mai. Một lần tôi rời công trường huyện lúc chưa sáng sau cả tháng làm không công, mỗi ngày lãnh hai lon bo bo. Đi bộ qua khỏi bìa rừng là khu nhà tranh kinh tế mới. Một thiếu phụ trẻ xinh, trông rất thành phố, trút nồi khoai mì nóng vào cái rỗ tre, bao quanh bởi bốn đứa con thật khôi ngô và hớn hở chờ bữa điểm tâm kiểu thời cách mạng mới. Tôi đau đớn xót xa cho gia đình ấy, tôi như muốn khóc và quên sỏi đá dưới đôi chân không giày dép. Một lúc sau tôi cười thầm, tự cho mình ngố, ở nhà có ngày vợ tôi không có khoai mì nấu cho con ăn, hoàn cảnh còn tệ hơn thế nữa nhưng tôi đã quen và không thấy xót xa.

Sống mãi bên Mỹ với những bức bách kinh tế, tôi không thấy mình vừa mất nước vừa nhà tan. Mai dẫu sao cũng vượt biên với mẹ rồi lập gia đình với người đi cùng tàu; còn tôi, tôi để lại tất cả. Cái tất cả nầy không gồm danh vọng cũ mà gồm sự êm ấm trong chu vi nhỏ bé của gia đình, cái rộng lớn trong vòng tay của đất nước xa xưa. Chấn thương ấy cứ đeo sát bên tôi như hình với bóng. Có hôm tôi cau có với Mai rằng Cali không có một dòng sông như Cửu Long, không có những ngày mưa rả rích, không có trái khế chua quẹt với ruốt. Thật ra tôi nào ghét chi Cali nhưng đó cũng như con bệnh nằm trên giường tìm cách gây gổ cô y tá xinh đẹp.

Wallpaper san diego, california, pacific ocean, san diego, california, pacific
Pacific Beach, San Diego

Chấn thương đã trở thành tác nhân của chấn thương như cái búa cứ đánh vào đầu. Nhưng được một cái là San Diego không đến mức xô bồ như Los Angeles, họa đồ đô thị không có nét vuông thước thợ, lát chả vô tình như bàn cờ của Quận Cam. Nó có những đường cong, ngõ quanh duyên dáng, chỗ thấp chỗ cao ẩn hiện như hòn non bộ. Dù có ai cho là bệnh tưởng, mà bệnh tưởng quá rồi còn chi nữa, tôi vẫn nghĩ thị xã nầy như một nhà thương trong đó có một kẻ bệnh tâm thần vì những chấn thương của thời cuộc.

Tôi quen dăm ba người trong phái đẹp, tôi đều xem họ là những cô y tá trong cái bệnh viện San Diego nói trên. Những sự quen biết nầy càng làm tôi cô đơn hơn. Ngạn ngữ có câu: ‘nước xa không thể chữa lửa gần’. Nguồn an vui nằm tận đâu xa, nơi gia đình ở quê nhà, nơi dòng sông êm ngọt không có ở Cali. Tuy vậy lắm lúc cái cô đơn ấy có phần tích cực. Mỗi người một nét riêng tạo cho tôi nhiều thi cảm. Hảo Tiên là nụ cười sâu. Cung Hạnh chính là khối màu ném vào khung vải thành bức chân dung. Nữ sinh Thùy Vũ đem tôi về những giờ cấm túc mà cứ nghĩ đến người Bao Vinh mình bỏ học đến thăm mà bị phạt. Tôi không biết gì về họ ngoài những danh xưng xã hội như cô giáo, học sinh, họa sĩ v.v...

Duy chỉ Mai mới cho biết vài uẩn khúc của đời tư. Nhưng rứa cũng đã là quá nhiều rồi. Như đã nói, tôi đến thăm Mai thưa dần, mà cũng chẳng có chi thêm để nghe, để nói. Lâu lâu gặp nàng ở chùa hay hội hè cộng đồng v.v…Một hôm tôi tình cờ gặp Mai tại bữa cơm đồng hương và thân hữu Vĩnh Long.

Trong một ngày rất gần nàng sẽ di chuyển qua một tiểu bang khác, cùng người bà con mở tiệm sửa áo quần; nơi ấy nhiều điều kiện thuận tiện hơn, tiền thuê nhà và cửa hàng rất rẻ, giá sinh hoạt không cao như Cali. Mai dự định sẽ không xin trợ cấp xã hội, mà chỉ xin trợ cấp y tế cho mẹ. Nhưng lối nói không chắc nịch như xưa. Mới trông như có gì không thật. Trước đây, nàng bảo đảm với tôi rằng không nhất thiết phải nói mọi điều nhưng những gì đã nói ra đều là sự thật.

Tuy vậy, tôi mong nàng nói dối. Tôi mong nàng không nói ra là đã giải quyết ổn thỏa với người chồng; đi nơi khác khỏi cái vùng nhiều mồm mép chào xáo, xa những con ma men nát rượu, trưa đầy năm, tối sinh nhật. Lần nầy cũng như lấy chồng mới. Có lấy thì lấy liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha. Tôi mong một lời dối đáng yêu.

Hơn hai tuần sau, Mai gọi tôi từ điện thoại công cộng ở cây xăng Shell bên xa lộ 8, và sẽ nhập chung đường số 10 để vào sâu trong Arizona. Nàng không muốn tôi đưa tiễn, quà cáp (tôi thêm: nước mắt cá sấu). Hôm trước cậu em họ đã thuê một xe ‘van’ qua đón gia đình Mai và đã rời San Diego ba giờ trước, hiện đang mua thêm nhiên liệu. Mai nói khi áo quần đứt nút sút khuy thì gởi cho nàng sửa không mất tiền. Tôi lưu ý chuẩn bị nước uống vì sẽ phải đi qua sa mạc; lưu ý tài xế xem kỷ dầu nước. Mai nói đã lo trước, có nồi xôi gà rô ti; còn đường sá đừng lo vì cậu em là anh hùng xa lộ. Tôi hỏi khéo nàng sẽ đi đâu bằng cách nói rằng đường xuyên bang nầy sau khi chạy qua Vòng Đai Mặt Trời sẽ chấm dứt ở nơi trồng rất nhiều khế và chanh. Mai chỉ tinh nghịch: “của chua ai thấy cũng thèm, anh nào khác chi ai”. Tôi đáp: “anh chỉ hảo ngọt”. Mai cười ha hả.

Tôi buồn chứ, mọi từ biệt đều buồn. Buồn nhưng chưa đến mức lâm ly đổ nước mắt (cá sấu?). Ngay lúc ấy tôi có ý định viết một truyện ngắn từ câu chuyện của Mai. Tôi muốn làm “thượng đế” (trong ngoặc kép) bằng cách cho một kết cuộc có hậu trong truyền thống văn dĩ tải đạo và không khí hài hòa. Người chồng trở về trong tình thương và trách nhiệm. Người vợ chân thành tiếp đón mà không cần những tiếng trịch thượng như tha lỗi, tái công chuộc tội, thương hại kẻ bơ vơ v.v…

Cả hai đối xứ với nhau trong tư thế vừa to lớn và vừa bé nhỏ. Nhỏ bé như hạt muối rơi vào biển cả, to lớn như biển cả tiếp nhận hạt muối. Họ đã tìm ra ý nghĩa và cứu cánh là yêu thương và được yêu thương; họ đã tìm ra một nguồn ý lực mới, ở trong tình cảnh ‘khô mộc phùng xuân’ (cây khô gặp mùa xuân đến) như chim đi xây tổ ấm mới. Vì Mai đang đến xa lộ số 10, thượng đế tôi sẽ cho nàng định cư cuối con đường Đông Tây nầy, tức là Florida; rồi tôi còn cho xuống mãi điểm cực nam trên những hòn đảo nhỏ. Ngoài những miếng vườn nhỏ nhiệt đới như trong Thành Nội Huế, Key West cát mặn có những hàng phi lao, thùy dương hay dương liễu như Đại Lãnh Nha Trang, Cảnh Dương Huế, và ngay cả Songkhla Thái Lan, những cây liễu xanh Mai dùng đặt tên con.

KW

Tôi chụp ngay tờ giấy ghi kẻo quên ý nghĩ của Mai về chiếc xà rông, quần một ống người ta cho Hội ở Nam Thái: nó là dấu hiệu đầu tiên của sự lưu đày: đến một nơi phải mặc xiêm y xứ người, ra đi trần truồng như nhộng, cắt bỏ những thứ đã thành các bộ phận của thân thể như người thân, lối xóm, trường học, mồ mã v.v…
Tôi viết một lèo được bảy trang giấy học trò thì thấm mệt. Lúc đó chưa có nhan đề; trước khi tiếp tục, tôi cho nó cái tên không ăn nhập vào đâu: Đàn Bà./-


Ngô Thy Miên  Dc Mơ   Ngc Lan


...........................



Friday, June 24, 2016

cây bồ đề, bài cũ

                                                                                          Christ Jaune, Gauguin 
cây bồ đề
tôn tht tu

Sống ở Saigon ai cũng thấy rõ ngoài vùng phố xá buôn bán, phần còn lại của đô thị nầy chia làm hai: một bên chen chúc, một bên biệt thự kiểu Pháp trong những vườn lá rậm, những bãi cỏ cắt mịn...Ngoài đường trong vùng sang trọng, cây xanh um tùm che mát bờ tường cổ kính quét vôi màu vàng. Tôi thường đưa nhà tôi qua vùng nầy. Vợ chồng phân tích từng nét kiến trúc trầm trồ khen ngợi nhà nầy nhà kia; rồi cũng có lúc bực mình vì một nhà mới mọc nửa quê nửa chợ.

Sau mấy lần vượt biên không thành và mất hộ khẩu ở vùng quê, tôi về sống bất hợp pháp ở Saigon. Những lúc cần tránh công an khu ở mới, tôi thường đi lang thang với đôi dép chiếc đực chiếc cái vào khu kiểu cách ấy nhưng không còn ngắm các biệt thự mà cúi đầu. Phần vì buồn cho kiếp lưu đày trên quê mẹ, phần để tìm các mẩu thuốc lá khá dài như Hoa Mai, Đà Lạt mà người hút bực mình không cháy liệng xuống đất.

Những bờ tường xi măng còn đó dưới những hàng cây xanh. Vĩa hè rác rưởi khá nhiều. Không ai buồn sơn lại những bức tường kia. Chủ cũ đã đi, chủ mới bận nuôi heo nuôi gà, thèm chi chút thẩm mỹ bên ngoài. Rêu phong ăn dần màu vàng.

Những cây non xé bờ vôi, mọc ra lởm chởm như hàm râu không cạo. Đó là những cây bồ đề, cây sanh non trước khi thành cổ thụ. Những cây bồ đề vắt vẻo ở bờ tường, mùa nắng chỉ còn vài ngọn lá vàng. Những rễ phụ quá khô không bám nỗi vào vách, buông thả trong gió như sợi tóc lạc lõng. Mới trông như ai nhặt một cây bồ đề đâu đó, dán vào tường cho nó khô nó héo mà chơi.

Mỗi lần đi trốn công an như vậy, tôi chỉ có một đồng dính túi để đi xe buýt lúc tối về nhà. Một hôm khi đứng nhìn cây bồ đề héo hắt, tôi đánh liều ngồi ở quán cà phê đầu đường, loại quán bỏ túi bán chui bán chạy ở đô thành đổ nát nầy. Vừa pha cà phê cô hàng vừa nhìn đôi dép hai thứ của tôi với con mắt là lạ. Vì thế tôi đứng dậy trả trước một đồng, đồng bạc duy nhất. Và để khỏi bị mời, dù mời đưa, mua thuốc Samit hay Ba Số Năm, tôi móc túi để ra bàn mấy mẩu tàn thuốc mới lượm như đánh canh bạc xả láng cuối cùng với người đẹp.

Tôi đưa cốc cà phê lên uống, mắt mãi nhìn đằng kia. Nếu có ai chú ý, có lẽ nhìn đôi mắt tôi không cú vọ như công an nhìn người. Thật thế, tôi đang nhìn cây bồ đề trên tường nứt màu vàng chen vào rêu héo. Tôi ngồi xuống đánh canh bạc cuối cùng với cô hàng nầy vì cây bồ đề ấy thôi. Nào có thích gì đâu.

Xin cô hàng lon nước rửa ly, tôi đến cây bồ đề tưới nhẹ. Nước rút vào bức tường khô không còn một giọt rơi xuống đất. Dấu nước chảy dài rồi bé phía dưới, in rõ lên nền vôi như một nét bút lông thủy mạc. Tay trái cầm cái lon, tay phải chống vào tường, tôi nghiêng mình hướng về cây bồ đề đang giành giựt nước với bức tường khô.

Khi tôi trở về, thấy tôi làm công việc khá kỳ quái, cô hàng tỏ vẻ bớt nghi kỵ. Cô lại đùa khi chỉ vào gốc cây lớn:
- Khi cây nầy tàn lụi, cây bồ đề kia sẽ lớn lên che phủ khu nầy; tôi sẽ dời cái bàn nầy qua đó.
- À ra thế, tôi đáp, tôi vừa giúp cô đấy nhé. Sao cô không tưới nước cho nó?
- Mặc kệ, cô ta trả lời, cây ngô đồng không trồng cũng mọc.

                                               ***
Tôi ngồi yên lặng. Tôi nhớ hồi bé khi đi thăm ông bà nội, tôi thích hòn non bộ đặt trên bể cạn, với những tiều phu, những tiên ông, những chiếc cầu nho nhỏ, con cá, con ốc... bằng sứ tráng men. Những thứ ấy ẩn hiện trong rừng cây nhỏ bé, có thác, có ghềnh, có sơn, có thủy. Những cây bồ đề vóc dáng sần sù thả chùm rễ râu xanh xuống nước để nuôi thân. Cả một cây cổ thụ nay chỉ thu nhỏ bằng gang tay, thân khẳn khiu với thời gian, với sương gió.

Cây cổ thụ tượng trưng sức mạnh vô biên phủ cả một góc trời mà thu lại trong tâm can, trở thành nhỏ bé vừa tầm của mọi người, mọi vật, len lỏi vào con tim của ai ai. Cây bồ đề lá nhỏ như quả tim. Thu rút lại mà không khắc khổ, trổ lá xanh tươi như nụ cười mà không nham nhở. Tuy nhỏ mà cây bồ đề vẫn tung ra cánh tay che con đường cheo leo nơi hòn non bộ hay phủ kín một nhịp cầu ước mơ.

Dưới khối núi với cỏ cây trùng điệp trong hồn nhiên tự tại, dưới đó là nước mát. Cá đỏ lội tung tăng hay nằm lững lờ như diều ngưng cánh buông thả trong gió chiều. Những con cá đứng yên như cây bồ đề đứng yên bên trên.

Giây phút bên bờ đường với cây bồ đề khô héo đưa tôi lạc cõi nào, không hiểu nằm đâu trong cung bực của thời gian và không gian, làm tôi quên bẵng cảnh lưu đày trên đất mẹ. Cây bồ đề nhỏ bé lọt lòng tay giờ đây nó an ủi tôi, nó làm bài học của lòng tôi.

Từ trước đến giờ, tôi chỉ làm việc để tung hoành, để bung ra để bành trướng và mãi mãi thêm lên. Vì thời cuộc đã khựng lại, khựng lại trong khung cửa hẹp của nhà tù, khựng lại trong đôi dép hai thứ, khựng lại trong sự săn đuổi của công an.

Cây bồ đề cổ thụ ngắn hơn gang tay, tích tụ cả gió sương thu lại thành sức mạnh, sức mạnh của yếu hèn, sức mạnh của con tim, sức mạnh của nguyện cầu. Cây bồ đề tượng trưng cho sự chuyển hoán tư thế trước những cục diện khác nhau mà tâm hồn vẫn là một. Nếu sự vươn ra đã là khó thì sự trở về với bản thể con người còn khó hơn nữa.

Từ hôm ấy tôi nhặt những cây bồ đề mọc ở vách tường mới lớn hay đã có hình thù cổ quái đem về trồng trong những phiến đá nhỏ ghép vào nhau, chưng trong nắp khạp nắp lu. Cứ mỗi sáng ra nhìn rễ trắng chạy trên đá hay thả xuống nước. Tôi uốn cành cong lên cong xuống, uyển chuyển theo mốc đá. Trong số những cây trồng, tôi thích nhất cây có gốc to bằng nắm tay mà chỉ có mầm lưa thưa, lá lại xanh như đôi mắt tinh khôi, khối lòng rộng mở. Tôi khen ngầm cây ấy chỉ biểu lộ bấy nhiêu sức sống.

Những cây bồ đề không mất tiền nầy là nguồn vui không riêng gì cho tôi mà cho cả gia đình. Mấy đứa con có quyền thêm một hòn sỏi, một viên bi hay một cành rau nước. Một hôm tôi đi về thấy một hình người bằng plastic ngồi dưới gốc cây. Tôi tưởng như một hiền nhân toạ tĩnh, tôi vái chào với tất cả cung kính. Tôi thấy mình nhỏ bé lại.

Gạt bỏ tính cách triết lý trong cây cảnh Đông phương, những cây bồ đề nhỏ bé trước mắt cho tôi một bài học kiên nhẫn, thu mình để giữ lại sự hiện hữu trước bão táp của cuộc đời. Mỗi cành cây uốn cong tượng trưng cho một u uẩn của lòng tôi. Chuẩn bị một tư thế vươn ra, một vùng đất soạn sẵn để trở về. Tôi chấp nhận sự lắng thinh để cố giữ thành trì cuối cùng làm tư duy thầm kín, một tự tại của cõi lòng. Không để cho nó nát tan.

Trước một bối cảnh của quê nhà như vậy, làm sao ta cố đừng điên lên mà giữ cho lòng thật yên, cho thật lắng cho dù có lao lung tả tơi. Rất nhiều lần vợ chồng tôi thấy như đang ở trong nhà thương điên. Báo chí Tây phương chỉ trích việc đưa vào dưỡng trí viện những nhà tư tưởng, những nhà khoa học mà họ không biết sau bức màn kia là một nhà thương điên rất lớn. Chỉ khác ở chỗ không có bác sĩ tâm thần.

Phải tự chữa lấy cho qua cơn khủng hoảng nầy. Chữa bằng những công việc đơn giản. Ở Nhật Bản, khoa xếp giấy thành hoa quả, chim muông là một phương pháp trị liệu tâm thần rất tốt.

Ngày ở quê, những lúc trời mưa không làm việc được, tôi rất đau buồn nhìn công việc bỏ bê mà khoai củ trong nhà đã hết. Mưa vẫn nhiều; mái tranh dột nát. Một bức bách tâm thần không tránh được. Tôi giải quyết bằng cách chú tâm tuyệt đối vào các thanh tre, những sợi lạt, những đóm thuốc lào tách nhẹ qua cái rựa bén trên tay. Những sợi lạt mềm nhủn dẻo kẹo, những đóm thuốc lào đều đặn xinh xinh xếp trước mắt như những tư tưởng mạch lạc trở về trong trật tự trước bức bách ngoại cảnh, của hiện tại chua xót, của tương lai mờ mịt.

Khi tôi trở về sống ở Saigon, những cây bồ đề thu hút cả chú tâm của tôi. Tôi đặt vào đấy cả cuộc sống và tìm từ đó sự lắng yên của tâm hồn trước sức công phá của thời cuộc đổi thay. Hình ảnh đạo sĩ bằng plastic nhỏ bé ở gốc bồ đề nhắc tôi một câu nguyện mà tôi xem như một thế liên hoàn chân vạc:

"Xin cho tôi ba điều: 1. Đủ sáng suốt để phân biệt thiện ác, xấu tốt. 2. Đủ bình thản chấp nhận những gì không thể thay đổi được. 3. Đủ can đảm làm những gì có thể làm được."

Thưa đạo sĩ, tôi đã bình thản như những cây bồ đề trước mắt. Tôi đủ can đảm chấp nhận mọi thứ để ra đi, ra đi một mình. Và nay nếu quyết định nầy đưa đến kết quả, chắc chắn tôi sẽ để lại sau lưng mấy cây bồ đề nầy và...và...

Những cây bồ đề được tưới mát săn sóc không làm tôi quên cây bồ đề héo hắt nơi bờ tường kia, cái cây cô hàng cà phê mong mỏi sẽ lớn lên che tàng bóng mát. Sau mấy lần xuống miền Tây vượt biên thất bại, tôi trở về Saigon. Một hôm có tin đi, tôi đưa nhà tôi dạo phố theo kiểu nhà nghèo. Chở nhau trên chiếc xe đạp đến góc đường mà tôi đã đánh canh bạc cuối cùng với người đẹp bằng mấy mẩu tàn thuốc lá mới lượm giữa đường. Đến quán tôi chỉ gọi một cốc ca phê đen, nhà tôi không uống gì. Giây lát sau, tôi đưa nàng lại cây bồ đề khô héo kia. Tôi đứng trong tư thế như lần trước.

Đó là ngày cuối cùng trước khi tôi đi. Tôi sờ cây bồ đề như ai mới dán vào tường. Với tất cả ngậm ngùi tôi nói:
- Hy vọng lần nầy anh đi được. Anh để lại cho em cây bồ đề héo hắt nầy.

Nhà tôi đứng buồn. Một lúc sau nàng nói:
-  Anh còn ngại gì mà không nói thẳng rằng anh để lại đằng sau một người vợ héo hắt. Nói quanh nói co làm gì cho buồn thêm.

Tôi đáp:
- Anh không can đảm nói thẳng như vậy. Nhưng thật ra anh còn để em lại với đống rác kia. Cái đống rác mà mỗi ngày con chúng ta đào xới tìm bao nylon bán ký, những mãnh chai sắc nhọn, những vật ngộ nghĩnh mà chúng làm đồ chơi. Anh để lại cho em tất cả, những dòng chữ yêu thương từ hồi em còn mười bốn. Anh để lại tất cả, kể cả cái héo hắt của cây bồ đề nầy. -
Thái Lan 1982











Friday, June 10, 2016

cây rau dền, truyện ngắn

                                                                                nội tâm, tranh Picasso
cây rau dền
tôn tht tu

Hắn vui sướng khi sáng tinh mơ vẫn thấy cây rau dền đỏ tươi. Đêm qua trong giấc ngủ chập chờn hắn cứ mơ tưởng đến thứ rau chát chát ngọt ngọt ấy. Hắn sợ sương đọng nặng đè gãy ngọn lá. Hắn sợ tiếng kẻng cầm canh đánh từ cái bọng bánh xe chát chúa không để cho cây rau dền yên lòng thở hút khí mát về đêm.
Hắn đã quen với tiếng thanh sắt đánh vào cái trống bằng sắt suốt ngày; đến mức độ thấy trống vắng khi thức nửa đêm mà không nghe thấy. Nhưng đêm qua hắn sợ cây rau dền kinh dật thần kinh. Hắn thương lắm vì cây rau dền măng non chưa tội tình gì mà phải về đây sống với hắn để chịu sự hành hạ của các tiếng kẻng như búa nện vào đầu.
Hắn van xin đừng có tiếng kẻng nào xáo động mối tương cảm giữa hắn và cây rau dền bé bỏng trong sương mai. Quanh hắn những luống rau muống trồng khô đã nở hoa trắng mộc mạc như loại ở bờ ao bờ hồ. Cây rau dền đỏ tía trổi lên giữa một luống rau phần nào già cỗi với cái khô của mùa đông. Nó hừng tía đỏ lên vì nắng hồng còn nhẹ. Hắn đưa tay nhổ hơn chục gốc muống xung quanh để tạo một khoảng sống cần thiết.
Chiều qua hắn nhổ cỏ ở bờ rào và tiếp xúc với một kẻ bên kia. Họ cho nhau một cây rau dền nhỏ. Hắn quay vội nhét xuống đất giữa luống rau muống, không có chỗ để ghi một tín hiệu, một mật mã. Không gì cả ngoài mấy ngọn lá và mớ rễ đứt ngang vì nhổ vội.
Cứ nhìn mãi cây rau đỏ, hắn yên lòng. Thứ nhất rau còn sống qua một đêm của tiếng kẻng; thứ hai chính hắn đã được an toàn sau công việc nguy hiểm là "quan hệ" vì một ngọn rau truyền giống.                    
Hắn thấy yên ổn vì bên kia bờ rào không có ai, nhất là không có chàng tuổi trẻ hào kiệt đã biếu cây rau dền đỏ nhổ vội từ đất khô để không ai có thể kết tội hắn tiếp tục trao đổi tin tức.
Nhiều anh em khác đã ra vườn rau. Nhưng chiếc áo rách bươm, may vội với vải bao cát màu rêu và đã rêu xanh thêm sau bao năm chứa cát dựng quanh nhà. Những gì chất chứa trong những chiếc áo bao cát ấy nay đã nặng nề như đất cát và thành đất cát. Những chiếc thùng, những chiếc gàu, những chiếc gáo chạm nhau nghe cũng vui tai, đỡ buồn.
Chút cây xanh nầy ở vào một nơi khác có thể xem như cái phổi của thành phố. Mà đây, người ta đi dạo với áo quần tả tơi. Trông kìa, già trẻ đủ thứ; những khuôn mặt khằn lên vì khắc khổ, những thanh niên vào buổi đầu cay đắng. Họ tiếp nối chuỗi dài hội ngộ: gặp nhau ở trung tiểu học, gặp nhau ở trường bộ binh, thiết giáp, gặp nhau hôm nay trên những luống rau muống hoa trắng, gặp nhau theo lệnh của tiếng kẻng. Rồi còn gặp nhau ở đâu nữa đây?
Ai ai câm nín không tỏ ra bị câu thúc. Họ đã thuần nhuyễn rồi. Có người trông điềm nhiên tự tại đưa tay nhỏ nhẹ bụi cỏ bên gốc rau muống như săn sóc một chậu cúc trắng. Không ai buồn phiền vì cái mùi hôi thối của thùng phân tươi vừa mới đưa ra. Thậm chí không ai phản đối nhăn nhó khi nhỡ ra một giọt phân lỏng bắn vào chân hay quần áo. Mà còn tốt nữa thay, à, ta đến giếng lấy một gàu nước chạy lại luống rau của ta rửa tay rửa chân thì thêm một tý chất bổ cho rau cải, cũng tốt thôi. Không ai thèm gớm ghiết gì mấy con dòi bò lúc nhúc. Mà còn cảm ơn là khác. Chúng cho ta ý niệm sống qua cái nhúc nhích quợ quậy, nhúc nhích trong cái băng giá của cõi lòng, tập cho đôi môi trở lại cử động bập bẹ tiếng yêu thương, để đừng quên tiếng yêu thương. Ôi những con dòi biết nhúc nhich, tập cho đôi mắt ta biết nhúc nhích để không còn trân tráo trước một nhành hoa đẹp. Ôi những con dòi đã cho ta cái sống. Ta yêu thương chúng lắm.
Công việc ở đây xem như ngày nghỉ. Đa số đã đi công tác nặng đến trưa mới về. Thành phần nầy gồm bệnh hoạn, đến phiên nấu bếp hay có việc tại chỗ nhưng rảnh vài giờ đi làm vườn. Hắn ở trong loại nầy. Hắn không buồn tưới mấy luống rau, mệt mỏi vì đêm qua cứ trằn trọc lo âu cho cây rau dền và nghe tiếng kẻng cầm canh.
Mỗi ngày hắn đi công tác, tối về trại nhấm nháp chén cơm vơi phĩnh lừa cơn đói. Rồi công việc của một ngày đè nặng thân xác hắn, kéo xuống cái sạp tre đầy rận rệp rồi ngủ. Một trách nhiệm ngắn ngủi của một ngày. Nếu qua đi thế là xong. Nếu không qua đi thế cũng là xong, nhưng xong cả cuộc đời, ví dụ cắt cỏ nuôi bò chạm trái mìn, hay đào hố chôn trái phá cũ chưa nổ, trèo lên nóc nhà lợp mái té xuống chết như mơ.


Rau dền tía - Amanranthus tricolor L

Nhưng tối qua một đêm không ngủ chỉ tại cây rau dền. Nghĩ đến cây rau dền là nghĩ đến chính hắn. Cây rau dền hé mở viễn ảnh bát cơm bớt vơi. Cây dền dễ trồng, hạt lại nhiều. Hắn tin tưởng màu đỏ mang đầy chất dương, theo khoa dưỡng sinh Nhật. Nước luộc rau màu đỏ dễ thành máu.
Đó chưa nói sơ qua qui luật đặc biệt của khu vực nầy. Rau muống phải ăn chung; hằng ngày phải ghi số rau bỏ vào chảo, tính ra tiền trừ vào gạo; rau là tài sản của nhà nước, trồng trên đất công và bởi những người cách mạng nuôi. Còn rau dền có thể "cải thiện linh tinh" trong ca trong cóng.
Hắn có thói quen nhìn lên Sao Cày, tập hợp những sao sáng trong chòm Hiệp Sĩ xếp như hình lưỡi cày. Trên trời thì sao cày, còn dưới vạt giường rệp cày trên thân xác gầy ốm của hắn. Hắn bực tức đến độ cáu tiết. Giá mà bắt được con rệp là có thể nhai nuốt. Dần dà hắn cũng dịu lại, thấy ngượng với chính mình. Hắn tự hóm hỉnh:
- Dẫu sao con rệp cũng chung máu huyết với mình. Có người cùng máu huyết mà hút cả tủy não thì sao. Trách làm gì con rận con rệp. Ồ, loài hạ đẳng trách làm chi.
Tâm trí hắn lơ lửng không biết đâu là đầu, đâu là đuôi, chồng chềnh như con tàu lạc hướng; cây rau dền nằm đâu? Hắn nhìn chòm sao Hiệp Sĩ, hắn nhớ có học rằng từ đỉnh đầu kéo xuống thanh kiếm là trục nam bắc. Dựa vào cái vô bổ ấy, hắn thấy tâm trí bớt quay cuồng. Hắn đưa tay vẽ hình một hiệp sĩ theo các vị trí sao trong tinh hệ nầy. Nét hào hùng còn sót lại đã biến hình vẽ thành một hiệp sĩ thực sự, tay vẫn còn để trên đốc kiếm.
Nỗi cô đơn cũng bớt chút đỉnh. Hắn đem hình ảnh ấy gán cho chàng tuổi trẻ ban chiều ngồi bên bờ rào dây kẽm, hào hiệp tặng hắn một cây rau dền nhổ vội. Hắn tưởng tượng chàng ta trao cây rau dền đỏ tía như một hiệp sĩ thời Trung Cổ trao một nhánh hoa hồng cho người đẹp trước khi cầm lấy cây đàn mà hát một khúc du ca.
Giờ nầy chàng tuổi trẻ ấy đang làm gì? Mộng mơ chăng ở bên dãy nhà kia sau hàng rào dây kẽm? Đêm lắng và giấc ngủ giờ nầy có làm giãn nét hằn mặn đắng mới mẻ trên khuôn mặt hay không? Hiệp sĩ ơi, hiệp sĩ ở trên trời cao nhìn giúp tôi. Hiệp sĩ xa mà thấy được, tôi gần mà không thấy được. Mong hiệp sĩ trở thành người bạn của chàng hiệp sĩ kia. Tôi còn nhờ một tí, trông hộ cây rau dền.
Không gió nhưng khá lạnh; hắn đau nhức răng; cái răng hỏng từ ngày vào đây không biết thuốc thang ra sao. Cái răng đã lung lay, nay đau lại. Có lần hắn nghe bạn hữu ngậm nước điếu cày thuốc lào cho qua cơn nhức. Mà bớt nhức thật; không phải vì ảnh hưởng của thần dược nầy mà nước ống điếu đã làm hắn say thuốc nôn mửa, quay cuồng đầu óc mà quên cơn đau. Cái đau lần nầy không sâu đậm mà đằm đằm làm nhẹ tay các con rệp dưới giường. Lâu ngày ở đây, hắn tập tạo dựng sự điềm tĩnh chấp nhận tất cả và từ đó bất cứ điều gì cũng là đề tài suy tư.
Trước khi vào trại nầy, hắn có đọc Nhật Ký Trong Tù của HCM. Dạo ấy hắn cũng đọc trong một trại tù. Hắn không đủ sức thưởng lãm thi ca của nhà thơ được ca ngợi như thánh. Nhưng còn nhớ có bài nói về cái đau răng vì trong tù ăn uống không đầy đủ. Sự nhớ lại nầy thức tỉnh hắn rằng hắn không phải là người đầu tiên khám phá ra sự liên hệ giữa nhà tù và cái răng hư. Ít ra ông Hồ cũng đã biết trước điều đó. Dưới ánh mặt trời không có gì lạ.
Ở góc nhà kia có ngọn lửa nhỏ, chắn ngang bởi một người ngồi yên. Dạo nầy hiếm củi nên bếp con bị ngăng cấm nhưng vẫn có kẻ xé rào đốt một chút lửa cho ấm lòng rồi sao tính sau. Cách đây một tuần về trước, khi đêm xuống, từng đóm lửa chập chờn trong bóng đen trong tiếng rì rào. Chẳng khác cảnh trong xóm đông dân mỗi tối; ở góc đường các quày hàng chè, cháo, bánh cuốn làm hội hoa đăng cho khách nhàn du. Những lúc như vậy, cái đầu và cái bao tử đem hắn về các khu Nguyễn Thiện Thuật hay Bàn Cờ, Chợ Bà Chiểu đến các quả trứng lộn còn nóng còn nồng với ngọn rau răm, với bát cháo trắng ăn củ cải muối.
Từng nhóm cụm năm cụm ba quanh một bếp nhỏ như khách qua đường trò chuyện với cô hàng chè xanh. Ai cũng đun nước lã, không phải vì vệ sinh mà cần nấu cái gì cho vui. Những câu chuyện như trống đánh bỏ dùi. Những khuôn mặt rời rã, đôi mắt nghệch ngoạc không đâu ra đâu.
Giờ đây hắn mới hiểu tại sao có nhà lập thể vẽ một mặt người mà mắt trái đi một đường, mắt phải đi một ngõ kia, cái cằm thụt mất ra đằng sau. Các đường nét tròn trịnh của trời đất chỉ còn là góc cạnh thẳng băng của một khối lập thể. Khi học tiếng Pháp hồi nhỏ, hắn thường gặp các bài tập đọc tả đêm đông gia đình ngồi quanh lò sưởi; những ngọn lửa nhẹ nhàng vuốt ve cái ấm nước. Còn đây hắn thấy những ngọn lửa hình dáng lập thể như những ngọn giáo đâm ngay vào thinh không, châm chọc bầu không khí lặng yên.
Hắn vẫn lặng lẽ chia sẻ ánh sáng của bếp con mà ông bạn tù đã đốt lên. Âm ấm một tý. "À cây rau dền có lạnh không nhỉ?" hắn tự hỏi. Hắn đưa tay quờ quạng vẽ trong không trung cây rau dền đỏ tía trong đường nét bán lập thể. Các ngọn lá không vuông nhưng có nét nhọn sắc. Và thân rau lại cắt ngang mấy đường như thái nhỏ ra. Hắn kinh hoảng với nét vẽ ấy.
Cây rau dền sao ta lại vẽ như thế? Sao vẽ ngọn lá như con dao? Cây rau dền ta sẽ ăn vào cho nhẹ cơn đói ăn như thế thì nó đâm thủng bao tử sao? Ta vẽ thân cây cắt ngang thì làm sao nó sống, nó đẻ thành con cháu để có nước luộc đỏ tươi làm máu của ta. Ta hãy vẽ như một nét dịu dàng của Renoir, hãy bỏ quên Picasso.
Anh bạn bỏ đi để lại cái bếp và viên gạch làm ghế ngồi. Hắn đến tọa thủ làm chủ mặt trời nho nhỏ của đêm tối nầy. Hắn thấy ấm áp hơn, đưa tay gần ngọn lửa. Hắn lấy một nắm dăm bỏ vào lò, cúi đầu đưa miệng thổi. Khói bốc lên làm nước mắt chảy. Hắn kéo vạt áo bằng bao cát nylon lên lau, nhưng không thấm hết. Như sợ một ai đó chê cười, hắn nói thầm:  "À mà khóc một tý cho vui có sao đâu".
Bất giác câu nói ấy để lại một cái buồn đau đớn không diễn tả được nên hắn cố tìm một câu thơ thay vào đó: Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Chút thi ca nầy nhắc hắn tập thơ của ông Hồ cũng có đoạn nói về bếp con. Lại một lần nữa hắn không phải là người đầu tiên biết sự hiện diện của ngọn lửa cô đơn. Ít ra ông Hồ cũng biết điều đó trước hắn.
Đang mãi mê về những ý nghĩ đi từ ngọn lửa, hắn nghe tiếng chân đi. Một anh bộ đội bước đến. Biết người ta sẽ hỏi gì, hắn nói ngay:
- Tôi thấy trong người lành lạnh, muốn ốm, đốt tý lửa cho ấm thôi, chả nấu gì, còn củi thì tôi lượm dăm vụn đốt đi cho sạch sân.
- Không, tôi chả nói gì. Bếp con thì cấm rồi đấy nhưng đốt sưởi tôi chả nói gì. Đi ngủ ngay, đã quá giờ quy định. Đáng lẽ tôi phải mời anh ngày mai lên tiểu đoàn làm việc. Nhưng thôi. Anh đi ngủ ngay.
Dập tắt ngọn lửa, hắn bước vào căn phòng tối đen, nực hơi người. Chỉ có tiếng muỗi vo ve. Hắn mừng thầm chiếc mùng nylon đem theo vẫn còn tốt tuy đã hoen ố. Hắn chui vào như nằm trong chiếc hòm thủy tinh mà du khách có cánh muốn nhai nuốt cái xác chết thay vì chiêm ngưỡng như thánh sống. Nhưng đêm tối không cho hắn thấy cái trong suốt, cái mùng đã thành cái hòm gỗ với cái trần màn thật đen và đen.
Khi chợt biết đang đầm mình trong một khối trộn lẫn của suy nghĩ, ước mơ, hoài cảm, chua chát, hắn mới rõ mình đã thức dậy từ bao giờ. Hắn mĩm cười, nằm lắng nghe tiếng bánh xe bò lạch cạch uể oải trong thinh vắng, thong thả như bước đi của đôi bò u kẹp vào ách đâu đây bên ngoài. Hắn không có ý niệm về vùng chung quanh, chỉ đến đây nửa đêm trong một chiếc xe bọc kín cùng một đoàn mấy chục chiếc. Hắn tưởng tượng một người đàn ông lực lưỡng tay cầm cây roi mây ngồi trên chiếc xe bò kéo gỗ, đang ngủ gà ngủ gật vì đôi bò đã thuộc đường đi. Một lữ hành đang di chuyển mà ngủ gật đến trong tâm tư một lữ hành nằm yên mà mắt sáng như mắt đôi bò. Hắn mĩm cười. Hắn muốn bước ra ngoài, thoát bớt mùi nồng của hơi người. Thò chân xuống đất hắn đã bắt đầu tạo ra vài tiếng động. Đến cửa hắn đánh hắng rồi chững chạt nói: "Tôi đi giải bên ngoài" rồi đánh hắng thêm một tiếng nữa mới bước ra sân.

Nhìn vào hướng hôm qua sao Hiệp Sĩ  chỉ phương bắc, hắn gặp chòm Đại Hùng Tinh đã nằm ngang. Như vậy cũng tạm gọi là sáng. Khi hắn mãi nhìn lên cao, một anh bộ đội đến gần từ lúc nào. Hắn chưa kịp nhận ra là người lính tối qua bảo hắn đi ngủ, anh nầy đã nói:
- Anh không ngủ được à? Tôi nhớ anh hôm qua ngồi bên bếp con phải không. Anh nói với tôi anh ốm thì sáng mai anh lên tiểu đoàn người ta phát thuốc còn nếu nặng lắm, người ta đưa lên K3 họ làm cho. Anh đi ngủ đi, chưa đến giờ thức dậy.
Giọng người vệ binh vẫn bình thường không gì mỉa mai. Nhưng sao tử tế đến vậy dù chỉ là một lời nói. Hắn linh cảm một cái gì sẽ đến, tuy vậy hắn bình tĩnh đi vào, không đáp một lời.
Phù thủng mà xin cho được một viên B1, phải chống gậy như tê liệt và không quên đứng cả giờ cho nước tụ ở hai chân. Nước vo gạo giành nhau dù gạo ẩm, ê chua. Có hôm chính hắn, sau một cơn sốt kinh hoàng hắn đến bệnh xá cầu cứu. Một chú bộ đội trẻ trên cổ áo đeo huy hiệu quân y trịnh trọng đặt chiếc cặp da lên bàn, mở từng cái cúc rồi từ từ lấy ra một cái hộp bằng thiết tròn nhỏ bằng móng tay cái, sơn đỏ, trên nắp có in hình ngôi sao vàng.
Anh ta cẩn thận đưa tay sờ lên trán hắn. Sau khi trở về vị trí trịnh trọng của ông thầy thuốc, anh cẩn thận mở hộp thiết ra, lấy ngón tay trỏ quẹt nhẹ trên lớp mỡ đặc màu nâu. Anh cẩn thận đậy nắp lại rồi đưa người phía trước ra dấu hắn chồm người đến gần. Anh lính quân y dùng ngón tay trỏ dính mỡ xoa nhẹ hai thái dương của hắn mỗi bên một lần rồi nói: "xong rồi, cao Thống Nhất đấy, tốt lắm".
Cao là gì chẳng biết, hắn lấy tay quẹt vào thái dương đưa lên mũi ngửi mới biết đó là dầu cù là, không thơm như hiệu Con Cọp hay Mc Phsu cũ đường Lê Thánh Tôn Saigon. Nay cứ như lời anh bộ đội nói, và giá như hắn ốm thật và cách chữa bằng cao không hiệu nghiệm, người ta sẽ đưa hắn lên K3 tức là bệnh xá cấp trung đoàn, xức cao một lần nữa sao.
Hắn đưa tay lên trán suy nghĩ về lời ân cần lạ thường hắn mới nghe ngoài sân. Chẳng để ý gì đến linh giác một cái gì sẽ đến, hắn chỉ nghĩ đến việc thuốc thang trong trại mà chán ngán. Xưa thì "đói ăn rau, đau uống thuốc"; nay thì đói ăn rau, đau khắc phục" rồi rau cũng chẳng có mà ăn.
Càng nghĩ hắn càng thương mến cây rau dền mới trồng chiều qua. Hắn hết sức tin tưởng cây rau dền đỏ tía đầy tương lai, đầy hứa hẹn. Hắn cười sung sướng, vung tay ra khỏi trán, tay chạm vào thành mùng. Từ đó hắn trở lại ý nghĩ đang nằm trong chiếc hòm thủy tinh, liên tưởng tác phẩm của người hiện nằm trong hòm thủy tinh.
Hồi nãy ngoài sân chòm sao Đại Hùng làm hắn nhớ câu: "nhìn xem Bắc Đẩu đã nằm ngang", ý nói lúc ấy đã vào sáng. Lại một lần nữa, lần thứ ba, dưới ánh mặt trời không có gì lạ. Hắn không phải là người đầu tiên biết vị trí nằm ngang của chòm sao nầy đánh dấu một đêm thức trắng và lo âu. Ít ra ông Hồ cũng đã biết.
Cơn đau nhức răng lại trổi dậy. Hắn mong ước có một lò lửa sưởi tay ấm rồi áp lên má cho nhẹ cơn đau. Ước gì ngồi bên lò than mà nhìn Bắc Đẩu nằm ngang, có thêm cái lon đặt trên bếp con nấu một nhánh rau dền, và sau đó có điếu thuốc lào thì thần tiên đã đến bên ta.
Nghĩ đến người bạn trẻ chưa quen biết biếu cây rau dền làm trổi dậy một ý thức tha nhân cuồn cuộn trong lòng. Một hình ảnh cũng hiện ra: anh bạn tù đã đốt nhường đống lửa.
Khi viết lên những hình ảnh tiêu biểu trại tù, nhà thơ họ Hồ có nghĩ đến kẻ khác không? Ông còn nhớ cơn đau răng không? nhớ đến bếp con như người bạn đối diện với cô đơn không? có còn thấy Bắc Đẩu nằm ngang? Những tiếng kêu đó chỉ làm màu làm mè, không phải là một định hướng hành động vì tha nhân. Mà ngược lại tha nhân chỉ kẻ thù. Nếu tác giả nắm cái khổ đau đè nặng lên chính mình làm mối cảm thông thì chắc ông ta đã sẽ không đi vào con đường bạo động hy sinh mạng sống hằng triệu người, đã sẽ không có cảnh tù đày chết dần chết mòn trong lãng quên. Đã sẽ không có một người như hắn suốt canh thâu lo lắng cây rau dền như lo cho quả tim ngừng đập.
Nói đến bạo tàn, nhà thơ nầy không sánh kịp các trại tập trung, các lò hơi ngạt của Hitler, các rừng xương ở Sibérie thời Staline. Nhưng hắn trách móc một cách đau buồn vì tác giả các thảm cảnh ấy là tác giả một tập thơ! được tôn sùng là nhà thơ vĩ đại. Hitler không phải là nhà thơ.
Hắn đau đớn vô cùng với viễn tượng một nhà thơ, tay cầm bút tay cầm búa phang ngang chém dọc như hai con người gặp nhau trong một thân xác để đồng hóa nhau mà đây cây bút che dấu cây búa.
Hắn nằm yên. Tiếng xe bò lăn bánh nhiều hơn. Hắn mơ đêm dài hơn tý nữa để ngủ bù. Thân thể ê chề như vừa qua một trận đòn nhừ tử, cựa quậy không được. Cảm giác lạnh buốt tê liệt đi từ não xuống chân tay. Những tiếng kẻng lâu năm đã quá căng thẳng hay quá làm nhủn dây thần kinh của hắn. Người ta đã cày nát tâm tư hắn như dấu xe bò dẫm nát con đường đất. Hắn đã băng hoại rồi sao?
Cảm tưởng chết chóc đã đến. Hắn cố níu kéo khoản thời gian còn lại, thấy mình bình tĩnh như người ta thường nói trước khi chết con người rất sáng suốt. Hắn mĩm cười, nào có ai chết hai lần mà có kinh nghiệm. Hắn lo nhỡ khi óc não vữa như tương mà chết đi thì cây rau dền sẽ ra sao. Hắn lo nhỡ mà chết trước khi chưa tìm được ý thức tha nhân, thì có dịp nào nữa không.
Khoảng mấy chục năm về trước vào một chiều, một cổ xe kéo ngừng trước nhà. Bố hắn bước xuống tay dìu một người đàn ông áo quần rách rưới mà cơn đau còn để lại trên mặt nhiều nếp hằn. Bố hắn gặp người kia ở góc đường kêu la rên rỉ nên đã đưa đến một ông thầy Tàu thuốc bắc chữa trị rồi đưa về nhà. Dăm bảy ngày sau khi hắn cùng bố đi thăm bà nội về, chị hắn chạy ra cổng hoảng hốt cho bố biết kẻ kia đã bỏ đi lấy rất nhiều đồ đạc. Bố hắn bình tĩnh chẳng quan tâm đến việc mất cắp mà nói với đứa con nhỏ: "Con thấy anh có khỏe không. Bố sợ vì tham tý quần áo rồi không ai thang thuốc cho, anh có đem gói thuốc theo hay bỏ quên".
Hình ảnh người cha sống lại trong đầu. Hắn thấy bố sống lại thật, đang đón hắn, hắn từ một thân xác rã rời, từ một linh hồn rách nát. Nhưng bố hắn thì còn nguyên vẹn tươi mát. Chắc hẳn bố đã chết với một tâm hồn bình thản, không bị dày xéo như hắn lúc nầy. Bố đã chết vào một thời mà xáo trộn bên ngoài ngừng ở lằn mức tư duy không đi sâu vào trí não như bây giờ.
Hắn ngủ thiếp.

Reclaimed Barn Wood and Barbed Wire Tree Wall Art: Barbwire Craft, Barn Wood Craft, Wood Art Project, Barbed Wire Tree, Reclaimed Wood Frame, Barb Wire Craft, Barn Wood Frame, Barbed Wire Craft, Barn Board Idea


Hắn thức dậy khi trời đã sáng, sắp xếp công việc trong phòng rồi đi ra vườn rau khi nơi nầy còn vắng để thăm cây rau dền. 
Một loạt kẻng vang lên như gọi nhau từ trại nầy qua trại khác chuẩn bị một ngày công tác. Một số đã quầy trở vào, áo quần rách nát xốc xếch. Hôm nay hắn ở nhà phụ bếp với nhiệm vụ thu góp rau của các đội đưa đến bếp chung và báo cáo số lượng. Nhiều nhóm ra vườn đem theo các dỏ cà xé đan bằng dây kẽm đã tháo gỡ gai sắt hoặc bao bố để đựng rau.
Đã đến mùa khô và lạnh. Có đội đã trồng cải bẹ xanh, bẹ trắng hay cải củ. Những cây cải măng non xanh nhạt vẫn hồn nhiên chào anh nắng. Hắn thấy một chút ngọt ngào, ngọt ngào như cây cải nhúng vào bát canh miếng có tý dò heo nong nóng vào ngày Tết lành lạnh. Hắn nhớ câu ca dao chưa hiểu:
      Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.

Ai? cái gì là cây cải? về trời là về đâu? người ta đã đi rồi chăng? đi về nơi sung sướng hay như bố hắn đã đi vào cõi chết với sự nguyên vẹn của tâm hồn? ở lại là ở lại chỗ nào? đắng cay là đắng cay nào? Cái lưỡi đã mặn đắng, hắn nghẹn ngào không một giải đáp.
Mấy anh bạn cùng đội đến cho biết theo lệnh chung, các luống rau muống cỗi phải nhổ lấy hạt làm giống, bòn mót đọt nào thì đem ăn nhường đất trồng cải; hôm nay đến lược luống có cây rau dền mới trồng. Hắn nói: "Được rồi, để tôi lo. Trưa nay tôi sẽ ra cắt ăn buổi tối. Các anh nhổ hết mấy luống kia đi".
Sau khoảng một giờ, cả đám gánh rau về bếp. Rau chất quanh cái giếng mới đào khi mới đến. Nước giếng đục ngầu như sữa phải lắng mới rửa rau và nấu ăn. Bếp trưởng chạy đến dục hắn cân ngay số rau xanh để kịp ghi, vì có lệnh các bếp phải đem sổ sách lên tiểu đoàn ngay.
Khu bếp và khu nhà ở như một tổ ong ngủ yên, vắng lặng như ngôi trường ngày nghỉ. Như thường lệ các bếp trưởng lên tiểu đoàn ký nhận hoặc điều chỉnh số thực phẩm lý thuyết đã nhận. Nhưng lần nầy họ đi về có vẽ lo ngại. Họ xầm xì với nhau như đánh hơi một biến chuyển nào đây. Một anh đùa chua chát: "Đại bộ phận nhé, đại bộ phận sẽ được nhân dân và cách mạng cho về".

Khoảng gần trưa, bếp đã chia cơm và rau xong. Ít lâu sau, đoàn công tác trở về chấm dứt buổi sáng làm việc xa, vai vác cuốc, vai vác xẻn. Tay ai cũng ôm một chiến lợi phẩm: một khúc dây kẽm, một cái lon nhôm còn dính đất, một mảnh ván ép. Họ ôm ghì vào người như quí lắm. Mà quí thật, vì những vật ấy khởi nguyên cho những chiếc vòng cho người yêu nếu có dịp gặp lại, một mẩu trang trí đặt ở đầu giường để vào những đêm không ngủ sờ tay vào như sờ vào tâm cảm, như sờ vào quả tim mình biết nó còn đó chưa mất.
Cơm nước xong ai cũng ngả lưng trong trưa nắng. Ai cũng nằm yên cho ánh nắng du dương với cái yên lặng ngoài sân để nghe tiếng gà gáy xa xa trộn lẫn với tiếng trẻ thơ gọi nhau ngoài khu mía khô lá, nơi có thể sáng nay xe bò lạch cạch đi qua.
Một hồi kẻng dục ba tiếng một vang động cả trại. Mọi người vẫn nằm vì lệnh khi báo động ai cũng phải về nơi mình ngủ để điểm danh. Họ đã nằm từ trước và chỉ chờ. Vẫn yên lặng.
Tiếng ồn ào vọng từ dãy nhà gần ngõ. Đằng đó người ta cuốn vội áo quần rách phơi trên dây kẽm. Không ai bảo ai mà cùng làm như vậy vì thừa sức biết đó là một lần kiểm soát. Một vệ binh đi đến từng dãy nhà ra lệnh cuốn hành trang lên sân tiểu đoàn ngay. Lại một hồi kẻng dục ba tiếng một.
Những ai xếp xong đã ra khỏi cổng dưới nắng. Có kẻ gọn gàng với cái bao nhỏ, có kẻ cồng kềnh một khúc gỗ đang chạm một hình tượng chưa xong, có kẻ ôm vào nách mấy bao cát bẩn.
Tất cả xếp theo đội ngũ, đứng cách nhau ba bước và xen kẽ, rồi ngồi xuống bày biện hành trang tế nhuyễn lỉnh kỉnh như bán chợ trời. Bộ đội đến xét và không quên dốc ngược các bị xem thử có gì không. Họ tịch thu các vật bén nhọn như cây kim lớn làm bằng gọng kẽm gai, hay con dao làm bằng niềng thùng gỗ hay bằng các thanh sắt gỉ. Những ai xét xong từ từ xếp hàng lại như chợ chiều vắng khách ngồi chờ xe về nhà. Không ai bảo ai một lời; mà chả có gì để nói, chỉ chờ xem và mong về trại nghỉ một tý rồi đi công tác buổi chiều.
Theo lệnh của người trách nhiệm, các đội đã lần lược về trại. Đến phiên đội hắn, quản giáo đến bảo đội trưởng gọi bếp trưởng rồi anh ta bảo hắn bước ra khỏi hàng mang theo "trang tư vật". Sau đó anh bảo toàn đội ra về.
Sau khi sân đã vắng người chỉ còn lại nón cối, quản giáo ra dấu ba người (hắn, bếp trưởng và đội trưởng) vào căn nhà tiểu đoàn. Chưa kịp ngồi xuống ghế, người quản giáo quay về anh bếp trưởng nói: "Anh qua bên hậu cần, tôi đã làm việc với họ rồi, lấy ba ngày gạo".
Hắn bình thản trước sự phải ra đi, đặt xách xuống đất trong khi anh bộ đội ngồi xuống ghế hai tay chống lên bàn. Biết câu chuyện không dính líu đến mình, anh đội trưởng đứng qua một bên để hắn trực diện với quản giáo. Người nầy nhìn hắn với một nụ cười không gượng lắm mà cũng không đủ tự nhiên của một nụ cười. Anh ta lấy giọng rồi trịnh trọng nói:
- Anh biết rồi. Cách mạng đã giải phóng miền Nam và xem các anh vừa là tội nhân vừa là nạn nhân của một chế độ áp bức. Cách mạng luôn xét tình, lý trong từng trạng huống cụ thể. Xét lý lịch của anh, thấy anh có chuyên môn xây cất, cách mạng điều anh đến một công trường góp phần xây dựng đất nước. Anh sẽ có điều kiện thuận lợi học tập tốt sớm đoàn tụ gia đình. Tôi chúc anh thắng lợi.
Đoạn anh quay về đội trưởng nói:
- Ngày mai chủ nhật, đồng chí chính trị viên sẽ làm việc với các anh như thường lệ và giải thích việc điều anh bạn đây đến một cơ quan kỹ thuật. Nhưng từ giờ, anh có thể nói cho mọi người biết sự ưu ái của cách mạng để quán triệt đường lối, an tâm học tập.
Anh bếp trưởng trở lại, nâng túi nylon đựng gạo lên ngang ngực như trình người bộ đội biết rồi trao cho hắn. Hắn đưa tay đón nhận, bỏ vào túi xách. Cả bốn người đều im lặng. Quản giáo đứng dậy nói:
- Anh bếp trưởng và đội trưởng về đi. Còn anh, anh cứ an tâm ở đây chờ tôi. Tôi đi liên hệ bên vệ binh đưa anh ngay lên trung đoàn để kịp về F hôm nay.
Hắn ngồi xuống hành lang, khuỷu tay chống vào đầu gối, mười ngón tay níu vào nhau đưa ra phía trước, cúi đầu trong yên lặng của một buổi chiều chưa ngả nắng. Quái nhĩ, hắn nghĩ, mình làm gì có khả năng chuyên môn. Hắn chỉ khai có thời gian ngắn làm thư ký đánh máy cho một ty công chánh tỉnh nhỏ. Lầm à? Hắn lo sợ. Nhỡ như người ta đưa hắn đến công trường xây cất, quá lắm hắn chỉ biết trộn hồ hay uốn sắt cốt bê tông. Như vậy hắn bị qui tội nói dối. Ai làm chứng thực hay dối. Mà dối là tội chết. Đùa à? Thôi, hãy để người ta đùa; nói vậy mà không phải vậy.
Hắn đứng dậy vươn vai tìm chút thoải mái, đưa mắt nhìn về phía dãy nhà ở với xao xuyến và vô định. Hắn nhìn xuống đất, mở hai lòng bàn tay nhìn chằm chặp như muốn đoan chắc đôi tay vẫn còn đó như kẻ đồng hành trên đoạn đường chiều nay và sẽ bắt đầu ngay đây.
Một vệ binh từ trong nhà tiến ra, vai mang khẩu AK xếp bán, đưa tay ra lệnh hắn lên đường mà không nói gì vì hai bên đã biết sẽ đi đâu. Hắn móc túi xách lên vai, đi trước người vệ binh chừng năm bước.
Cặp theo con đường nhỏ ra đến cổng, bạn hữu đổ xô đứng sau hàng rào; nhiều nơi lưới kẽm gai căng như bong bóng vì sức đẩy bên trong. Hắn cảm khái như đi giữa hàng rào danh dự, không có tiếng hoan hô, không có bông giấy, chỉ có câm nín và ngậm ngùi. Hắn cố sức tỏ ra điềm nhiên, không nao núng, mắt nhìn thẳng.
Đi một đoạn khá dài, như cố lấy bình tĩnh, hắn đưa tay vuốt nhẹ mái tóc ngắn trên đầu trần. Ngay lúc đó, một cái nón làm bằng vải bao cát phóng ra từ hàng rào, nằm ngay giữa đường trước hắn khoảng năm bảy bước. Hắn cúi xuống lượm thì vệ binh đã đến kịp đưa tay cản. Cả hai tiếp tục đi để lại cái nón đàng sau. Đi tiếp ít bước hắn nghe la lớn: "Đứng lại".
Anh vệ binh đang cầm cái nón lên xem xét, quay ngang quay dọc, quay lên quay xuống rồi đánh mạnh vào chân xem thử có gì rơi ra không. Rồi anh ta quẳng nón xuống đất, quay vào hàng rào nói từng chữ:
- Một bên vuốt tóc; tóc lại ngắn. Một bên quẳng cái nón ra. Các anh có ý đồ gì? Anh nào làm, tự giác trình diện tiểu đoàn ngay. Tôi lên trung đoàn về mà chưa có ai thì các anh tự động tập họp ở hội trường.
Hắn kinh hoảng. Đau đớn chiếm cả thân thể; tội lỗi ray rứt tâm hồn. Chính hắn, chính sự hiện diện của hắn gây mối thương cảm cho một bạn nào ném ra cái nón để phải chịu một biện pháp kỷ luật. Một biện pháp chưa rõ hậu quả ra sao, hậu quả có thể từ số không đến vô tận. Bé xé cho to là chuyện thường. Mà to thì ngừng ở chỗ nào. Nhức buốc từng sớ thịt.
Đến ngã ba đường, hắn thấy một người cũng vai đeo túi xách đang hướng về trung đoàn, đàng sau cũng có một bộ đội nhưng không súng. Khi hai nhóm gần nhau, vệ binh ra lệnh hắn ngừng lại chờ nhóm kia đi vài ba chục bước mới tiếp tục. Hơn một phút sau, người đeo bị ấy rẻ vào sân trung đoàn.

Kẻ đó không ai khác hơn là chàng trẻ tuổi hôm qua đã cho hắn một cây rau dền, chàng tuổi trẻ mà hắn gọi là hiệp sĩ.
Sân trung đoàn lặng phắt, không một bóng người. Được lệnh nghỉ ở hành lang, hắn đảo mắt nhìn quanh xem người kia ở đâu. Họ đem đi rồi. Sự thiếu vắng ấy cho hắn thấy mối liên hệ sâu đậm với chàng trẻ kia. Tội ác tày trời đi từ hắn mà ra. Giá như chiều qua hắn không có đó, không xin cây rau dền thì làm sao có cảnh chàng ấy đeo bao bị đến đây chờ đi vào một nơi chưa biết sẽ về đâu.
Cây rau dền chiều qua biểu lộ tương cảm giữa hai người chiều nay là đầu mối một chuỗi ngày nặng nề cho chàng trẻ ấy và cho hắn. Sự hiện diện của người ấy cho phép hắn không tin lời quản giáo nói hắn được đưa đến một cơ quan kỹ thuật. Chắc chắn trưa nay bên tiểu đoàn kia người ta cũng đã nói với chàng ấy theo cùng phương cách.
Hắn biết rõ vấn đề nên trở về cái bình tĩnh tự tạo từ ngày vào chốn nầy. Hắn điềm nhiên hít một hơi thở thật sâu, quay đầu nhìn quanh mà mắt không để vào đâu.
Rồi đây, ta có thể gặp người trẻ tuổi ấy không?
Giá như gặp nhau được, thì hắn sẽ cho ta một cây rau dền hay ta sẽ cho hắn một cây rau dền?
Mà có rau dền mà cho không?
Nếu có, thì người ta có cho phép cho nhau một cây rau dền không?
Sau những câu hỏi vớ vẩn ấy, hắn gật gù, đóng mở đôi lòng tay, nói thầm như muốn hát:
Cây rau dền non lá
cây rau dền đỏ tía
đỏ tía như màu mắt bầm máu
của những ngày đông máu
của những ngày sôi máu
cây rau dền, cây rau dền, cây rau dền.-

--------------------------------------------------------------------




Tuesday, May 24, 2016

chết trên sân khấu



chết trên sân khấu
Tôn Tht Tu

Một cô gái đang bị rắc rối với cảnh sát ở cây xăng góc đường. Cảnh nầy quá thường; nhưng khi biết cô ấy là con một người trong xóm thì ta thấy có gì bất ổn, tuy không sôi động, trong lòng. Nếu là con của một người thân thì sự xốn xang tăng thêm. Nói khác càng có liên hệ thì niềm đau thương càng lớn.
Thính giả, người thưởng ngoạn, đã thấy Phạm Duy là một thực thể trong đời sống, họ nghe PD từ lỗ tai xuống trái tim như nghe Beethoven. Họ gần gũi với PD trên vecteur nghệ thuật. Khi thiên thần sụp đỗ, thiên thần không khốn đốn mà khách ngưỡng mộ sống dở chết dở. Họ muốn giết kẻ phụ bạc mà không giết được nên có người đã tự giết mình trong ý hướng giết kẻ kia một cách tiêu cực (đồng hóa với người ghét/thương).
Chính vì vậy, câu chuyện PD không bao giờ dứt. Nó không dứt tùy theo từng người, tùy theo nồng độ liên hệ. Trong lãnh vực súng ống, range là độ xa giữa họng súng và mục tiêu; "shoot in close range" là kê súng sát mà bắn thì có chết thôi.
Sự liên hệ giữa người và người là một huyền nhiệm, được xây dựng tùy cá nhân, tùy quá khứ vô thức, tùy hoàn cảnh giáo dục; có những sự liện hệ mà suy nghĩ kỹ có khi mang màu sắc linh thiêng.
Những dòng trên đây tôi viết khi một nữ văn hữu (correspondante) cho biết đã vỡ mộng vì một video có Khánh Ly hát mừng tổng lãnh sự VC; về sau vài ý nầy được dùng lại trong bài về Phạm Duy khi ông chết.- ghi chú 2016].
Tôi hết sức thông hiểu sự vỡ mộng của bà bạn email nầy; HTC chưa bao giờ nói nhận định nghệ thuật về Khánh Ly nên không biết nỗi niềm ấy sâu xa thế nào. Tôi xin nói qua cái nhìn của mình.

Thiết nghĩ, Khánh Ly phải bổ túc cho Thái Thanh thì nhạc PD mới lên tuyệt đĩnh. Nhạc Trịnh Công Sơn không đủ cái thiết tha cay đắng, hoan lạc tình người để khai thác giọng ca của KL. Nhạc TCS tạm cho nó cái tên cho đẹp như siêu thực, tượng trưng. Ca khúc Da Vàng chỉ vá víu và đơn điệu.
Kim Tước không chen vào nhạc PD vì Kim Tước chỉ thích hợp cho loại bán cổ điển như của Vũ Thành, Cung Tiến và một ít bài của PD trong phong cách ấy như Chiều Về Trên Sông, Đường Chiều Lá Rụng.
Thái Thanh, trái với tin tưởng của nhiều người, không hát hết nhạc PD. Không ai có thể qua mặt cô em vợ trong những bài như Kỷ Vật Cho Em, Tình Hoài Hương, Kỷ Niệm, vô số và vô số, kể cả Beau Danube Bleu. Cô út Phạm thị Thái được trời cho cái giọng hát khá nhiều thánh thiện nên khó diễn tả những cái có phần éo le như Hẹn Hò: một người ngồi bên ni sông ....
May mà KL không đi theo con đường của nhiều ngệ sĩ trình diễn “chuyên trị” một tác giả. Nói khác KL không đeo sống chết nơi ông "liệt… sĩ" xứ Huế nầy.
May, vì sao may? Khung trời (the scope) của TCS chỉ nằm trong phạm vi e ấp nhỏ nhoi kiểu Lê Uyên Phương; mấy bản phản chiến nới rộng scope ấy một chút nhưng bị lệ thuộc vào một khung cảnh địa dư cụ thể là cuộc chiến VN. Hãy coi xem: chiều chủ nhật buồn ... Hơi nhạc vì vậy cũng bị lệ thuộc vào cái khung trời ấy. TCS đã cố đi xa hơn như nới rộng không gian trong Phôi Pha và Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ.
Đáng lý không gian ấy đã phải rất to lớn vì TCS dùng những danh từ rất gợi cảm, trái với lời chắc nịch của PD. Thật ra ý niệm về một scope là một cảm nhận trực giác. Hãy so sánh Mozart và Chopin. Mozart bệnh hoạn từ nhỏ và do đó yểu mệnh, không phải chết vì âm mưu của Salieri như trong phim Amadeus. Nhưng Mozart rất đàn ông, nhạc của ông nhanh nhất trên thế giới, linh hoạt vô cùng. Chopin cũng mắc bệnh phổi và có cuộc tình éo le với George Sand, nhưng cuộc sống hầu như bị chi phối bởi mặc cảm suy yếu, chính vì vậy nhạc Chopin như một tiếng nói nhỏ, nhưng nghệ thuật của ông rất cao cường làm cho các sáng tác trông rất tự nhiên; các nhà khảo cứu cho thấy ông đã nhào nắn nên không phóng khoáng như Mozart. Dư luận hầu như đồng thanh rằng TCS đã mất dương tính (virilité); nếu đúng thì đó là lý do làm cho scope của chàng bị nhỏ lại.
Khánh Ly đã không theo con đường "chỉ vì một soạn giả", một khi nhạc TCS đã dư thừa ế ẩm. Nàng tìm những sinh lộ khác như Ngô Thụy Miên, Phạm Duy, nhạc tiền chiến. Nhờ giọng ca không ai bắt chước được, tự khắc chế, KL đã đạt tỷ số hát hay cao nhất sau Thái Thanh. Lệ Thu hát không đều; có những bài hát rất bựa mà tôi phải khôi hài nói tô bún cho Lệ Thu thiếu ớt trong mùa mưa lạnh ở Huế. Trong "thế hệ" nầy hầu như chỉ một mình KL được dự vào "club cổ điển" gồm tay tổ Thái Thanh, rồi đến Kim Tước, Mai Hương..., Sự lượng định nầy có phần hơi quá nhưng là một cách nhìn KL.
Những nhận xét trên chưa đủ diễn tả cuộc đời hát ca của KL; chúng chỉ phụ thêm những nhận định chung của nhiều người. Những ưu điểm nghệ thuật nầy nếu ngừng ở chỗ đó thì không có việc gì thêm cần nói.

Nhưng KL cũng như Lệ Thu, cũng như Ngọc Lan, đối với chúng ta, không giống như Nana Mouskouri, Mireille Mathieu hay Dalida, Patty Page v.v... Bởi lẽ, giữa người thưởng ngoạn và nghệ sĩ trong khung cảnh vô cùng đặc biệt của lịch sử hiện đại, có một mối liện hệ trên nhiều vecteurs; có lẽ phức tạp hơn trường hợp nghệ sĩ Cuba lưu vong ở Miami. Một điều không thể chối cải, sự khác biệt ý thức hệ ảnh hưởng đến nhận định của người nghe, người đọc. Nhưng ở những người quen sống trong không khí khai phóng miền Nam, nó không cộc lốc dị hợm như phía bên kia vĩ tuyến 17. Nếu hôm nay chúng ta bị đem về năm 1946 hoặc 1954, chúng ta sẽ áp dụng cách phê phán truyện Kiều theo chỉ huy của đảng và nói trường hợp KL là hoa lài cắm bãi cứt trâu. Vào thời ấy hai mục tiêu chà đạp là Tự Lực Văn Đoàn và Nguyễn Du.

Khánh Ly với lý tưởng màu Cờ Vàng!
Khánh Ly vinh danh Cờ Vàng
Nhưng tính cách cực đoan nhiều khi được việc. Gần hai tháng sau khi hạ màn mới tập trung cải tạo, khoảng thời gian nhiều người đã phải làm việc với chế độ mới và phải hát những bản nhạc mới. Họ quen nên cũng hát trong trại cho vui. Quản giáo cấm hát: không đủ tư cách hát nhạc cách mạng nhất là bài nào có tên ông già. Bọn trá hàng nầy ruột gan để chỗ khác. Rõ đúng theo Khổng Tử: nội ngoại bất tề sự bất thành.
Người miền Nam đã biết KL dự những phiên họp quan trọng ở Đà Lạt cùng với cha Lan, người tuyên bố chỉ có con đường cho VN là Mặt trận GPMN nhưng có kẻ vẫn dùng máy bay các loại đưa nàng vào bộ chỉ huy không quân để hát những bài phản chiến và có thể còn những việc khác. Rồi người ta lại khen nàng mặc áo có cờ vàng với cam kết sống chết với lập trường chống cộng.
Sau một thời gian im lặng, tưởng nàng tĩnh tâm nhưng thực tế mới phát giác KL đã về VN tuyên bố lung tung như Nguyễn Thanh Ty tố cáo. Nàng được tiếng khôn ngoan không một lời nhỏ khi TCS bị chỉ trích bởi Trịnh Cung và Liên Thành kéo theo cả ngàn lời bàn của độc giả. Nhưng đó là thời gian KL đã hát mừng nhân viên sứ quán CS. Cả một năm sau video của buổi sinh hoạt nầy mới đưa ra công chúng tuy bên VN người ta đã biết.
Khi xem khúc phim nầy, vợ chồng tôi giữ im lặng; hai hôm sau chúng tôi trò chuyện và đã gặp nhau trên nhiều nhận xét chính. Trước dịp nầy tôi đã năm lần viết ngắn về KL, mới nhất là nhân bài viết của Cao Mỵ Nhân. Tôi thấy mình đang đối diện với một KL cừ khôi can đảm bảo vệ TCS, tự tin trong tiếng hát.
Xem xong thấy mình không muốn ghét KL nữa nhưng không nghĩa là chấp nhận, không nghĩa là ủng hộ, không nghĩa là bỏ qua. Cảm nghĩ lúc đầu nó ra làm sao ấy.
Chỉ có thể giải thích một cách ngụy biện như thời Hy Lạp Cổ. Khi đã đạt một điều gì thì hay phá bĩnh mà chơi. Ví như PD qua mấy trường ca, qua mấy trăm bản nhạc hay ho, ông viết: một hai ba ta đi lính cả nhà. một hai ba ta đi lính cọng hòa hoặc "buồn chi bỏ qua đi tám. KL đã đạt danh vọng tiền tài nay không cần nữa, phá hết mà chơi. Nào có như vậy. KL muốn củng cố gia tài nghệ thuật và gia tài tiền bạc bằng con đường mới, trở vế vết xe của cha Lan ngày xưa Đà Lạt.

Về chính trị thì đã rõ; đại đa số khách ngưỡng mộ tìm nơi KL một đồng minh qua Người Di Tản Buồn; Đêm Chôn Dầu; Một ngày năm tư con bỏ nước ra đi v.v...nay thì KL hát khen người đã xua họ vào bước lưu đày, trại cải tạo, kinh tế mới ... KL là biệt kích văn nghệ theo kiểu mới không như kiểu của Hoàng Hải Thủy.
Về âm nhạc là một phá sản toàn diện. TCS nơi KL đêm ấy không hơn gì TCS trong đám ca sĩ choai choai sau 75, không biết nhạc sử, không ý niệm về cái đẹp (esthetique), tuy đến mức Thanh Lam la hét. Nét chính yếu trong nhạc TCS là nhịp rất chậm, trừ những bài về sau học theo kiểu ngoài Bắc trước 75 như người đi lên đồi cao, mẹ vỗ tay hoan hô hòa bình.
KL đã hát tham, làm thành điều kỳ dị gọi là liên khúc; mỗi bài một chút, hát nhanh hát gấp. Mây Hồng không nhẹ nhàng mà như đang bị hurricane thổi; bước chân của Hạ Trắng như bị kẻ cướp rượt qua công viên. Những bản nhạc ấy không thích hợp cho nhún nhảy mà nghề nhún nhảy KL lại không có. Thế mà KL cũng đã vung vít quờ quạng khá nhiều, nhúc nhích, xung xăng.
Ngạc nhiên vì sao KL lại biến những bản nhạc gạo cội của mình thành những presto dồn dập không đúng chỗ. Đó là về âm nhạc. Nhưng thực tế với giọng ca lứa tuổi gần 70, người ta còn hát chậm để còn chỗ mà thở. Patty Page đã làm điên đảo giới âm nhạc khi bà đã gần 80 mà hát hay hơn những bài gạo cội thời xuân sắc. Nhưng Patty không phung phí sức lực mà nuôi dưỡng giọng ca qua những bản "chữ ký" (signature song). Các nghệ sĩ về già đều giữ những lần trình diễn cũ làm sao cho chúng không mờ đi. Danh cầm Mỹ Van Cliburn, đoạt giải dương cầm Tchaikosky Nga thời Kroutchev, sau một thời gian im lìm, đã trở lại sân khấu và ông cũng đàn lại concerto năm xưa viết bởi Tchaikosky, tác phẩm đưa ông đến đĩnh cao trong đời nghệ sĩ.
Một điểm không đáng nói nhưng phải nói. Đó là cách ăn mặc, dù cô nói ngay khi bước lên sân khấu xin lỗi y phục không tươm tấc. Khánh Ly trong chiếc măng tô, quần tây, tóc búi sơ sài trông giống như mấy bà nội trợ lái xe vào Home Depot ngày cuối tuần mua vật dụng sửa nhà hay cây cối về trồng.
Đấy là một sự tính toán để biện giải về sau rằng nàng không cố ý hát hầu nhân viên ngoại giao CS mà bị ép trong một hoàn cảnh, nể nang hay quá yêu nghề. Không thể có chuyện ấy ở một người khôn ngoan như Khánh Ly: đã về VN trở lại Mỹ nói các giọng điệu khác nhau tráo trở ngọt ngào như sống chết với cờ vàng và tôi chỉ vì tiền và vì sợ bọn kháng chiến. KL hẳn biết chuyện xuất hiện nầy không đơn giản. Tô Văn Lai không nói gì với KL sao? Mắc gì KL phải đến đấy để bị ép lên hát!
Tính toán nầy chẳng may không giúp gì mà đã cùng những yếu tố khác đã đưa KL vào góc tối. Mãnh quần hồng hoen ố rượu rơi. Với thời buổi truyền hình ngày nay, dung mạo của nghệ sĩ không thể xao lãng. Trở lại Patty Page, lúc trẻ đâu có đẹp như các ca sĩ Mỹ khác, và không đẹp như KL. Nhưng tháng 11 năm 2010 có hình nằm trên trang bìa một tạp chí điện ảnh số 1 của Hollywood,  sắc diện tinh anh. Ở tuổi 84, Patty vẫn còn lưu diễn ở Mỹ và Canada, mỗi năm chừng 50 buổi. Khán thính giả không phải trông một bà lão lụm khụm ăn mặc bê bối.
Các bạn chớ vội tin những điều tôi viết, hãy xem cái video thì rõ hơn nữa. Nếu các bạn thấy tôi viết không quá đáng, nếu các bạn là ông bầu văn nghệ trình diễn, bạn có dám đem hai triệu dollars mời KL hát để đầu tư làm giàu hay không? Người bơm tin nầy rất thích trò lạm phát, tập tễnh nghề tin vịt.

Thật buồn, tôi không muốn viết nhiều, bỗng dưng tôi thấy quí mến cái chết chưa có, không có thật, nhưng có trong ước mơ của Dalida: tôi muốn chết trên sân khấu dưới những lằn đạn của ánh đèn chiếu rọi, trong sự ôm ấp của những bức màn nhung. Nơi đó, nơi sân khấu, tôi đã được sinh ra và sống lên, không gian dối, không xảo hoặc; tôi chỉ có một tội là hớp hồn dân Pháp tuy không nhiều như Đờ Gôn theo sự thăm dò dư luận. Nhưng tôi, Dalida, tôi không bá đạo không mánh mung như nhà chính trị già nua nầy, tôi hát trên sân khấu, chết trên sân khấu, công khai, không lén lút, chỉ có nghệ thuật, không mồm mép, lưu manh. [cập nhật 2016].Và tôi cũng quí mến cái chết có thật trên sân khấu của Jane Little, đại hồ cầm, ở Atlanta.
Sân khấu không phải là đất thành của những con tắt kè đổi màu. Những thứ hồn cô cốt cậu, ai ai cũng lánh xa, dù ở trên chiến tuyến nào hay trên quan điểm nào. Sân khấu linh thiêng như đền thờ nghệ thuật không dành cho những thứ lưu manh. Tôi không đồng ý với Trịnh Công Sơn trên nhiều điểm, nếu không nói là ghét. Nhưng ghép Khánh Ly với TCS ở chỗ chê lẫn chỗ khen, ở chỗ thích lẫn chỗ không thích thì tội nghiệp cho Sơn.

Phụ bản 1:

  Jane Little 87 tuổi đột quỵ bất tĩnh (và chết sau đó vài giờ) khi đang trình diễn với dàn nhạc giao hưởng Atlanta, ngày 16 thg 5, 2016. Bà đạt kỷ lục có thời gian dài nhất với cùng một dàn nhạc: 71 năm từ khi bắt đầu ở tuổi 16 năm 1945.

Phụ bản 2: 
  
  Dalida   Mourir Sur Scène

Viens mais ne viens pas quand je serais seule
Quand le rideau un jour tombera,
Je veux qu'il tombe derrière moi.
Viens mais ne viens pas quand je serais seule
Moi qui ai tout choisi dans ma vie
Je veux choisir ma mort aussi.
Il y a ceux qui veulent mourir un jour de pluie
Et d'autres en plein soleil,
Il y a ceux qui veulent mourir seuls dans un lit
Tranquille dans leur sommeil
Moi je veux mourir sur scène devant les projecteurs
Oui je veux mourir sur scène,
Le cœur ouvert tout en couleur
Mourir sans la moindre peine
Au dernier rendez-vous
Moi je veux mourir sur scène
En chantant jusqu'au bout
Viens mais ne viens pas quand je serais seule
Tous les deux on se connaît déjà,
On s'est vu de près souviens-toi.
Viens mais ne viens pas quand je serais seule
Choisis plutôt un soir de gala
Si tu veux danser avec moi
Ma vie a brûlé sous trop de lumière
Je ne peux pas partir dans l'ombre
Moi je veux mourir fusillée de laser
Devant une salle comble.
Moi je veux mourir sur scène devant les projecteurs
Oui je veux mourir sur scène,
Le cœur ouvert tout en couleur
Mourir sans la moindre peine
Au dernier rendez-vous
Moi je veux mourir sur scène
En chantant jusqu'au bout
Mourir sans la moindre peine
Du corps bien orchestré
Moi je veux mourir sur scène,
C'est là que je suis née.

........................................................................................................

Friday, May 6, 2016

di lụy của ý tưởng


Newtons Third Law of Motion Animation Law Newton 39 s Third Law
          newton ngồi gốc cây táo
ideas have consequences
di lụy của ý tưởng

manas journal 1950, ttt dịch

Khi công thức hóa các định luật về di động, Isaac Newton không thể có ý nghĩ rằng hai hoặc ba thế hệ sau, các thức giả thuyết giảng rằng ông đã chứng minh thế giới là một bộ máy. Trái lại, Newton đã dày công nói rõ trong cuốn sách về quang học rằng nguyên do tiên khởi của các hiện tượng vật lý chắc chắn không mang tính chất máy móc; ông đã cẩn thận tránh né mọi cố công giải thích nguyên do của trọng lực, điều với ông là không thể phát giác. Ông nói: “hệ thống đẹp đẽ nhất của chúng ta gồm mặt trời, các vệ tinh, các sao chổi chỉ có thể hình thành từ ý nguyện và sự thống lãnh của một Đấng thông minh và có quyền lực”. Newton đã không thể ở yên trong tay của hậu thế.

Cách nay (1950) một thế kỷ, E.A. Burtt đã phóng bút:  thế giới bên ngoài thực sự quan trọng là một thế giới cứng lạnh, không màu sắc, câm nín và chết khô; một thế giới của định lượng, một thế giới của những di động có thể biểu thị và đong đo bằng toán học trong một sự đều đặn máy móc. (Trong lúc ấy), thế giới của phẩm lượng – được người đời quan niệm ngay sau đó - chỉ là một hệ quả thứ yếu, hiếm hoi của một bộ máy vô cùng to lớn bao trùm mọi vật.
Giá như có thể thấy tương lai – dự đoán các sự quảng diễn về sau đối với học thuyết của mình – Newton đã, giống như Hume, dấu kỷ bản thảo trong hộc bàn; hay, như Diderot, giao tác phẩm cho một người bạn nhờ giữ kín bí mật.

Cũng giống vậy, Hegel đã phải hết sức thận trọng trong việc ngưỡng mộ và ca ngợi “chính quyền nhà nước”, giá như ông đã tiên đoán các chính quyền nhà nước thế kỷ 20 đã đạt những quyền uy gì và đã xử dụng quyền lực ra sao. Và Bellamy – kẻ quảng bá chủ trương xã hội ở Hoa Kỳ nhiều hơn bất cứ người Mỹ nào – đã sáng tác cuốn Looking Backward đầy đủ hơn, nhiều hơn nội dung cuốn Nineteen-Eighty-Four của Orwell, giá như ông đã biết rõ cách thức mà quyền hành tập trung đã hủy diệt lý tưởng xã hội về tự do của con người. Đã một lần Bellamy viết cho một nhà báo như sau:  Giá như tôi đã nghĩ ra rằng chủ trương xã hội đã không bảo đảm tự do đầy đủ cho cá nhân, đã không tạo lập một môi trường trí thức thuận lợi cho các cuộc nghiên cứu khoa học và triết học, tôi đã sẽ là người đầu tiên chống đối nó.

Những diễn biến bên trên có thể đưa đến hai nhận xét. Thứ nhất, các sự phát giác hay canh tân trọng yếu, dù trong khoa học hay lãnh vực ý tưởng, đều mang lại những hậu quả vượt xa và rất xa khỏi nguyện vọng của người người nghiên cứu.
Thứ hai, chúng ta phải học cách phân biệt một bên là tiến bộ “đối xứng” áp dụng chung cho mọi người và một bên là các trào lưu mang tính cách tiến bộ; những trào lưu nầy nhằm sửa đổi các sự u mê rõ rệt và xóa bỏ các bất công xã hội rộng lớn.

Bước tiến của Newton giúp ta nắm vững vật chất và hiểu biết về các di động của nó nhưng không thêm một chút gì vào sự hiểu biết về con người, con người dùng kiến thức vật lý vừa nêu. Đường lối lý tưởng của Hegel là một hấp dẫn huyền nhiệm cho các quốc gia nhưng nó cần được cân bằng bởi một nhà tư tưởng, ví dụ McTaggart (chủ trương nhân bản). Chủ nghĩa xã hội của Âu Châu – và chủ nghĩa cọng sản ngày nay – cần biết giá trị của trách nhiệm cá nhân tìm gặp trong các áng văn đầy triết lý của Leon Tolstoy.

Dĩ nhiên chúng ta không thể điều chỉnh sự thể quá khứ nầy; tương lai vẫn chưa thành khuôn dạng; trong một mức độ nào đó, tương lai bao giờ cũng nằm trong tình trạng chưa thành khuôn dạng. Qua sự quán xét quá khứ, nhu cầu lớn nhất cho tương lai là một sự hiểu biết đầy đủ hơn về các thành tố của sự tiến bộ thực sự dành cho con người, tương phản với những ảo tưởng lộng hành thao túng bao thế kỷ nay.---

nguyên bản tiếng Anh: