add this

Wednesday, October 6, 2021

đường Trần Quốc Toản


Đường Trần Quốc Toản SG

Trang Nguyên

Đường Trần Quốc Toản Sài Gòn thời Pháp thuộc có tên Pavie. Vài năm sau khi chiếm Gia Định, người Pháp mới chiếm thành Gia Ðịnh người Pháp cho lập trường đua ngựa ở Ðồng Tập Trận (thuộc quận 3 và 10) làm nơi giải trí cho binh lính. Cánh đồng này rộng đến vài ngàn mẫu. Trước đó, đây là nơi luyện tập diễn binh của binh sĩ thành Gia Ðịnh vào giữa thế kỷ 19. Ngày nay vị trí chính xác từ mé đường Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt cho đến Ngã Sáu Công Trường Dân Chủ. Cạnh bên Ngã Sáu là Mả Ngụy hay Mả Biền Tru (vì có ngôi mộ chung chôn 1,831 xác người lớn nhỏ sau khi cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi bị dẹp tan) và còn rất nhiều mồ mả của dân cư sống quanh vùng được chôn cất ở đây. Người Pháp gọi là Ðồng Mả Mồ (Plaine des Tombeaux).

Trường đua rộng lớn, kéo dài đến đường Hòa Hưng vào Khám Chí Hòa ngày nay, thông qua đến đường Tô Hiến Thành – Nguyễn Tri Phương nối dài vòng sang đường 3 Tháng 2, trở về Ngã Sáu Công Trường Dân Chủ. Và đó là lý do vùng đất này còn nhiều đất trống, xây cất trại lính, khu gia binh vào thời cuối thập niên 1950.

Trường đua nằm ở khoảng giữa vùng đất đường Phan Thanh Giản cũ ngày nay lấn sang làng Chí Hòa, được xây dựng rất lớn, đường đua hình chữ nhật có khán đài nhìn sang một con đường nội bộ hơi gãy khúc cắt dài trên sân cỏ, gần song song với đường Phan Thanh Giản cũ. Con đường này không có tên, một đầu gần đường Petrus Ký (nối dài), đầu kia đụng đường Lê Văn Duyệt. 

TQT từ công trường Dân Chủ Ngã Sáu Lê Văn Duyệt

Trường đua này hoạt động cho đến năm 1931 mới chuyển vị trí về làng Phú Thọ lúc đó gọi là quận 4 (trưng dụng một phần đất của quận 5 và huyện Tân Bình, đến năm 1969 mới đổi thành quận 11. Trong khi đó quận 4 hiện nay, hồi xưa lại là quận 6). Trường đua cũ được phá bỏ. Mảnh đất đó sau này thuộc về đất quân sự thời đệ nhất VNCH cho xây trại Lê Lợi hướng mặt ra đường Lê Văn Duyệt, mặt hông đường Trần Quốc Toản cho cất lục quân công xưởng hay còn gọi xưởng quân cụ căn cứ 40. 

TQT, cuối, gặp Hậu Giang tại bùng binh Cây Gõ

Đường Trần Quốc Toản hình thành vào thời gian sau 1954, từ đoạn đường không tên trong trường đua và được liên kết với đoạn đường có sẵn trước đó (khoảng năm 1920 khi mở rộng ranh giới Sài Gòn thành lập quận 4, quận 3) mang tên là Pavie. Hai đoạn đường cũ và mới (gặp nhau tại ngã tư Nguyễn Tri Phương). Từ sau 1954 đặt tên Trần Quốc Toản. Không chỉ có đường Trần Quốc Toản mà nhiều con đường trong thành phố cũng được chỉnh trang cùng một lúc tại nhiều quận trong thành phố kể từ mốc thời gian này. 

Bến xe Petrus Ký thập niên 1950

Báo Sáng Dội Miền Nam số 48 (tháng 6/1963) có một bài viết đặc biệt về tình hình phát triển đường phố và các khu dân cư sau 9 năm định dạng đô thị Sài Gòn: Ðây là một xa lộ mới mở của vòng đai đô thành để cho các xe đò và xe lô qua lại, khi muốn vào bên trong thành phố hay từ bến tỏa đi các tỉnh. Ðây cũng là con đường để cho xe đi từ các tỉnh miền Ðông thẳng sang các tỉnh miền Tây, không cần ghé qua thành phố, giảm áp lực cho giao thông nội đô thành phố lúc đó đã bắt đầu tăng, giờ vào sở và tan sở, xe cộ vẫn bị kẹt đến 15 phút nửa giờ mới nhích xe đi được. Vì vậy đường Trần Quốc Toản hết sức cần thiết để xe cộ thoát được ra ngoài đô thành.

Bến Xe Petrus Ký 1959

Ðường dài khoảng năm cây số từ đầu nối ngã năm (sau năm 1963 mới mở thêm đường Nguyễn Thượng Hiền từ Phan Thanh Giản thông vào, từ đó thành ngã sáu Công Trường Dân Chủ) Yên Ðỗ, Hiền Vương, Lê Văn Duyệt, thẳng tới Phú Lâm (ngã sáu Cây Gõ) gặp đường Lục Tỉnh để đi về các tỉnh miền Tây. Ðường rộng có ba dòng xe đi và ba dòng xe về lúc nào cũng tấp nập xe chạy.

Việt Nam Quốc Tự, Viện Hóa Đạo

Không những thế, dẫn tới đường ấy, từ trong giữa thành phố còn có các đường nhỏ nối dài ra khiến Trần Quốc Toản trở thành một trục giao thông chính, một cái xương sống cho tất cả các đường khác như: Cao Thắng, Nguyễn Thiện Thuật, Lý Thái Tổ, Petrus Ký, Sư Vạn Hạnh, Nguyễn Duy Dương, Nguyễn Tri Phương, Triệu Ðà (Ngô Quyền), Nguyễn Kim, Nguyễn Văn Thoại, Lê Ðại Hành, Phó Cơ Ðiều, Lý Thành Nguyên, Tôn Thọ Tường, Hà Tôn Quyền, Dương Công Trừng v.v.

Ở các đường nhỏ này, đường phóng tới đâu là nhà dân mọc theo tới đó. Nhà lá, nhà tôn, nhà ngói... xen lẫn nhà bê tông đúc làm theo lối mới kiên cố đủ điện nước, đường chưa tráng nhựa. Trên đường này đối diện với khu Học viện Quốc gia Hành chánh đương xây cất, nhà dân đã mọc kín, toàn là nhà đẹp và đắt tiền...

Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, 1962

Ðấy là vài hình ảnh của sự phát triển dân cư trên đường Trần Quốc Toản của năm 1963. Vào thời gian này, các công sở, trường học, bệnh viện, trại lính, chung cư đã được xây trước đó. Điển hình từ hướng Công Trường Dân Chủ về Cây Gõ, bắt đầu từ bên trái, ta thấy xưởng quân cụ và nối tiếp là Cục Quân Cụ, đối diện bên kia đường là kho dự trữ gạo và lương thực của quân đội VNCH (Quân tiếp vụ). Nhích xuống gần ngã ba Cao Thắng ta thấy một thủy đài bê tông, cạnh bên là khu dân cư, rồi đến Học viện Quốc gia Hành chánh. Nhìn sang bên đường là trường tư thục Hồng Lạc, gần đó là trường đại học tư Minh Ðức. 

VN Quốc Tự 1970

Học viện Quốc gia Hành chánh được xây dựng nhanh chóng trong năm 1962 để chuyển từ trụ sở gần Dinh Độc Lập, địa điểm tạm khi trường được dọn về từ Đà Lạt 1955, gấp rút đào tạo viên chức hành chánh cao cấp cho chính phủ. Từ đây, đi tiếp ta thấy Cơ quan Viện trợ Quân sự Thế giới Tự Do (Free World Military Assistance Organization), đến năm 1973 tòa nhà này trở thành Trụ sở của Uỷ ban Hỗn hợp Quân sự bốn bên (International Commission of Control and Supervision) gọi tắt là ICCS. Cơ quan này có nhiệm vụ giám sát việc thi hành Hiệp định Paris, ngưng chiến và trao đổi tù binh. Sát bên là Viện Hóa Ðạo do Thượng tọa Thích Tâm Châu làm Viện trưởng.

Bến xe Petrus Ký 1966

Xuống tí nữa là ngã tư Petrus Ký, xe đò đi miền Tây lẫn miền Ðông đậu cứng hai bên từ đầu đường Trần Quốc Toản đến tận Nhà máy thuốc lá MIC. Xe đò từ sáng sớm đến chiều tối ra vô tấp nập khiến xe trên đường Trần Quốc Toản quá sức. Ðến năm 1965, Bộ Giao thông mới bắt đầu xây cất Xa cảng miền Tây để giải tỏa bến xe đò này.

TQT /Lý Nam Đế gần trường đua Phú Thọ

Bước thêm nữa gặp đường Nguyễn Tri Phương, góc ngã tư bên tay phải là chợ cá đầu mối Trần Quốc Toản. Lúc trời nắng nóng, mùi tanh cá mắm bay cả khu vực, cộng thêm mùi của bãi rác khổng lồ bên hông chợ, ai đi ngang qua cũng bịt mũi.

Chợ cá Trần Quốc Toản

Xuống dưới, khỏi chợ cá Trần Quốc Toản là cư xá Công Binh bên tay phải, cư xá Nguyễn Tri Phương bên tay trái, rồi tới cư xá Vườn Lài I, Vườn Lài II, cư xá Phú Thọ, cư xá Nhảy Dù, cư xá Lữ Gia... Ði tiếp qua vách tường mặt sau của Trường đua Phú Thọ, hai bên nhà cửa san sát, tiếp đến là cuối đường giáp vào Dương Công Trừng. Ðến năm 1969 đường Trần Quốc Toản được nối dài đi qua chùa Linh Quang, bước tới là chùa Phụng Sơn hay còn gọi Chùa Gò. Tại đây đường Trần Quốc Toản nhập vào đường Hậu Giang (Hồng Bàng) ngay Công trường Bình Ðịnh Vương Lê Lợi.

bùng binh Cây Gõ, xe hướng về Phú Lâm xa cảng Miền Tây

Như vậy, đường Trần Quốc Toản hình thành qua ba giai đoạn: Ban đầu vào khoảng 1920 mang tên Pavie từ Dương Công Trừng đến Nguyễn Tri Phương. Kế đến là năm 1954 từ Nguyễn Tri Phương đến Công Trường Dân Chủ. Cuối cùng là năm 1969 từ Dương Công Trừng nối dài đến đường Hậu Giang.

==============================================================

Ghi chú: Bài gốc có chỗ không chính xác về Học Viện Quốc Gia Hành Chánh [xây 1954 để chuyển từ Đà Lạt về năm 1955]. Trường QGHC ở Đà Lạt mang tên mới Học Viện QGHC di chuyển về Saigon đóng tại trụ sở tạm, đường Alexandre de Rhodes gần dinh Độc Lập. Trường mới nói trong bài hoàn tất 1962 làm trụ sở mới. Đã hiệu đính.

Một điểm khác, câu cuối nói đoạn cuối của đường TQT làm xong năm 1969 từ đường Dương Công Trừng đến bùng binh Cây Gõ. Thiết nghĩ đánh máy sai. Chúng tôi từ 1962 đã sử dụng đường nầy thông suốt đi từ Quận Ba đến Cây Gõ để đi tiếp về Phú Lâm hầu như hằng tuần về nghỉ tại vườn cây gia đình vợ tương lai.

Địa danh vẫn như cũ trước 1975. Xin xem xuất xứ ở đây

==============================================================

Xin xem thêm bài viết "bên hông chợ cá" cá theo link:

căn nhà định chuẩn

=============================


Monday, October 4, 2021

cái ô, cái lon, cái lit....

 

                                  một đồng Đông Dương một lon gạo

Cái ô, cái lít, cái lon …

Tôn Tht Tu

Đáp lại một hồi ngắn trên Facebook về chuyến đi chợ để mẹ giới thiệu chỗ mua quen, độc giả chỉ chú ý cái lon đong gạo. Bởi vì tác giả đặt chuyện mua gạo làm đề chính và đưa hình cái lon to, gạo vun như núi, giữa một thau nhôm đầy gạo; ai cũng nghĩ tác giả cho đó là cái lon đong gạo ngày xưa, thời gian kể chuyện.

Tôi đã quen sợ chính quyền, cho nên thấy thiên hạ bàn về cái lon thì cho đó là nguy hiễm vì chính quyền đã cấm dùng chữ lon, vì chữ lon tất yếu như tất yếu lịch sử biện chứng, sẽ đưa đến một danh từ mà chính quyền cho là vô văn hóa. Muốn đến chỗ vô văn hóa sau khi viết ba mẫu tự lờ o nờ, phải thêm hai dấu, mà bây giờ là chọt thêm hai cú. Tuy vậy, chọt một cú thì chưa đến nỗi nào. Chọt trúng cái nón thì đến xứ Côn Lôn của Kim Dung coi đấu chưởng. Chọt trúng dấu huyền thì là Cầu Lòn. Nhưng nhớ nhé đi qua Cầu Lòn phải bỏ nón, (khuynh cái mà không cần hạ mã, ngồi xe mà chạy). Khi lòn mà đội nón là chọt hai cú đấy nhé, xong om cái thứ vô văn hóa đầu đường xó chợ.

Xin phép nói tiếp và cam đoan chỉ lờ o nờ, không chọt thêm dấu.

Cái lon kim loại hẳn không phải là sản phẩm của xứ nông nghiệp VN, nước mình không nuôi bò sữa; nó được du nhập bởi người Pháp. Chậm nhất vào thời Trần Tế Xương (1870-1907). Thiết nghĩ “sữa bò” của Tú Xương là sữa đặc trong lon, sữa Ông Thọ và Mont Blanc.

Nào có nghĩa gì cái chữ nho,

Ông nghè ông cống cũng nằm co.

Chi bằng đi học làm thầy phán,

Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò.

Không biết lúc nào lon thành một đơn vị đo lường. Tuy nhiên chúng tôi thấy giữa thập niên 1940. Một đồng Đông Dương một lon gạo; đồng Đông Dương quí vô vạn, so với những thứ tiền khác như “bạc Cụ Hồ” đi chợ phải gánh bạc. Thiết nghĩ trước đó người ta dùng cái ô; nhưng cái ô to lắm, không đủ tiền mua nên thêm cái lon.

Ô là cái đọi tiện từ khúc gỗ, không ai biết đường kính, độ sâu bao nhiêu phân, lòng tô đứng hay trẹt. Thể tích là quyết định của người dùng. Giá hạ thì lòng tô trẹt v.v…Cái ô mép gỗ mỏng nên vành ô mòn xuống thấp.

Thời tôi hồi hương kinh tế mới thì không dùng lon hay ô mà “lít”. Lít như là chai lít (litre) 100 phân khối đong rượu, nước mắm, dầu… Lít là cái lon bằng kim loại hình viên trụ nói là có thể tích 100 phân khối. Vì lít do mình làm không như cái lon sữa bò Mont Blanc, nghĩa là to nhỏ tùy mình, không cần phải tộn lên hay tộn xuống mất công. Tộn lên ít gạo; tộn xuống nhiều gạo. Thiệt sự, tộn chỉ là tộn xuống như câu ca dao nầy:

Ba lon tộn là bốn lon bằng / Gạo hẻo rằng thêm ba hột / Sợ ốt dột thêm nửa lon / Chạy lon ton đổ hết cả!

Chính quyền đến thu mua có cái lít của chính quyền. Hằng tháng, có thằng con nít chừng 10 tuổi đến từng nhà bảo phải nạp một lít gạo khi thì để cứu đói chỗ nầy chỗ kia, khi thì vì nghĩa vụ quốc tế. Nhà không có gạo, chỉ có khoai mì còn dưới đất. Cho nên phải qua chùa Viên Chiếu mượn tiền ra chợ Quán Chim mua lít gạo ngay. Đem lên xã nạp, phải mang theo một chén gạo. Xã đưa ra cái lít của xã thì lít gạo ngoài chợ đổ vô không đầy, phải móc túi lấy gạo đắp cho đủ.

Nay để vấn đề cho các triết gia, các nhà thiền học (không nói thiền sư, mất lòng) dùng bản thể luận từ Platon đến Descartes và Jean Paul Sartre để xác định cái lít của xã đúng, hay cái lít ngoài chợ đúng.

Chúng tôi xin nạp tiền theo giá thu mua, xã không chịu, phải theo giá chợ để xã đi mua gạo cứu đói cấp thời, ai lại để cho người ta chết, “cứu nhân như cứu hỏa”. Ôi cái đạo đức cách mạng sao mà hay đến thế.

Cái ô đong gạo để lại trong đầu tôi một chị Cúc, mơ hồ như Liêu Trai, có thực trong tâm tư. Đối diện chùa Thiên Minh dốc Nam Giao là nhà tranh của bác Xuyên. Bác trai ngày nào mới nghe thì như gây gổ với bác gái: Tau noái khoai náng (nướng) ngon hơn khoai nấu. Chỉ một câu thôi, giờ nầy qua giờ nọ. Mấy chục năm sau tôi mới biết người say rượu chỉ nói một điều mấy trăm lần, những điều không có chi, như “đôi giày tui há mỏ”. Thật vậy, bác Xuyên thích uống rượu. Chị Cúc chính là “con gái rượu” bán gạo ở Chợ Bến Ngự và thường mua rượu cho bố ca vịnh khoai náng khoai nấu, lên hàng nghệ thuật như thi ca, hội họa.

Tôi biết chị Cúc khi sáu hay bảy tuổi sau chiến tranh 1945 tá túc tại chùa nầy. Nếu còn sống, bây giờ 2021 chị Cúc ngoài trăm tuổi. Từ trên nền chùa cao ngó xuống đường, chị Cúc gánh gạo đi bán. Tôi thường đi xuống chợ mua cái nầy cái kia, như bó chè, bó rau v.v…đều thấy chị Cúc ngồi bán nơi đình gạo, chỉ có hai thúng gạo như hai ngọn núi nhọn. Một thúng có cái ô, thúng kia có ống tre, khi không có người mua. Cái ô bóng vàng đậm màu gỗ mít. Cái ống gạt bằng tre bóng như vẹt ni. Thỉnh thoảng chị Cúc đem qua chùa cho ít gạo, có lẽ nhiều hơn một lon và ít hơn một ô. Chị cười duyên, đến chùa không dềnh dang như vợ các quan lớn Nam triều, bà phủ, bà tuần. Khi chùa có việc cúng kỵ, trai tuần v.v… chị Cúc thường gánh nước giếng bên Báo Quốc hay nước sông ở cầu Nam Giao, gánh lên dốc.

Ở chung với hai bác Xuyên có vợ chồng chị Cúc. Anh Tháo có nghề giặt áo quần. Có khi anh Tháo gánh nước về, hay ôm áo quần xuống sông giặt rồi đem lên phơi.

Đến lớp nhì thì tôi không còn ở đấy nữa, và không bao giờ thấy chị Cúc.

Chị Cúc vừa một ảo ảnh vừa là chân như. Không gì quý bằng hình bóng nhân thể và đời người.-

======================================================

bán gạo ở Chợ Mỹ Tho, Định Tường trước 1975

===========================


Monday, September 27, 2021

Hoàng Đế Bảo Đại

 


Bảo Đại Hoàng Đế Thuộc Địa

Bo Đại, Monarque Colonial

Christopher Goscha*** Tôn Tht Tu dịch


Giống như Sihanouk, hoàng đế Bảo Đại (BĐ), đã bị đặt để nhằm phục vụ quyền lợi của thuộc địa. Nhưng năm 1954, BĐ không biết cách biến mình thành nhân vật sáng chói trên trường chính trị quốc gia.

Đến cuối thập niên 1880, Pháp đã thống trị hoàn toàn đế quốc VN và chia nước thành ba vùng (Nam Kỳ, An Nam và Bắc Kỳ) để sáp nhập vào một quốc gia thuộc địa Đông Dương bên cạnh Lào và Miên. Pháp đặt vương triều VN dưới quyền bảo hộ của mình. Nhưng đó chỉ là một chế độ quân chủ trên lý thuyết. Thuộc địa đã tuốt hết các uy quyền thực sự, và giảm thiểu sự kiểm soát lãnh thổ chỉ dồn về miền trung.

Với con số ngày một thêm nhiều, các quan cai trị thuộc địa không ngừng biến nền quân chủ VN như một công cụ chính trị.

Pierre Pasquier đến Đông Dương 1898, làm khâm sứ ở Trung Kỳ sau thế chiến I và thành toàn quyền từ 1928 đến 1935 đã viết một tập kỷ yếu rất uyên thâm về nền quân chủ xưa của VN.

Trong thập niên 1910, ông cộng tác chặt chẽ với Albert Sarraut, khuynh hướng xã hội cấp tiến, hai lần làm toàn quyền Đông Dương (1911-1913 và 1916-1919) và được chính thức công nhận là lý thuyết gia ý thức hệ về thuộc địa của chính phủ Đệ Tam Cộng Hòa Pháp, tiếp nối “lão Bắc Kỳ” Jules Ferry. Người Việt tiếp tục chống đối quyền lực của Pháp. Hai bên đều biết ý của nhau.

Trong thời gian thế chiến I tiếp diễn, Pasquier và Sarraut đã phá tan các âm mưu chống thuộc địa muốn kéo các vua thuộc địa vào chính nghĩa quốc gia.

Cuộc nổi dậy của Duy Tân năm 1916 đã làm cho hai ông đứng ngồi không yên. Việc quảng bá chủ nghĩa Cộng Sản cũng làm họ lo âu không kém. Từ cuộc chính biến 1917 và sự thành lập Đệ Tam CSQT hai năm sau, Sarraut theo sát các âm mưu của Nga xúi dục nổi loạn tại các thuộc địa trên thế giới.

Sarraut và Pasquier cấu kết ăn nhịp trong việc tạo dựng một lãnh chúa thuộc địa trung thành nơi cá nhân của vị hoàng tử trẻ nhà Nguyễn, Bảo Đại.

Hoàng đế tương lai, sinh năm 1913, phải thấm nhuần triệt để chính sách “hợp tác Pháp Việt” mà Sarraut đã công khai trình bày ở Hà Nội năm 1919. Hằng ngàn người Việt đã ủng hộ Pháp trong thế chiến và mong chờ các cuộc cải cách. Mục đích công khai là cải cách công quyền và gia tăng sự hợp tác chính trị của người Việt nhằm xây dựng một Đông Dương mới. Mục đích ngầm là dựa vào nền quân chủ để chính thống hóa chính sách hợp tác, đẩy lui các phe phái chống đối và kết hợp dân chúng nông thôn với Pháp qua biểu tượng trung gian là hoàng đế.

Năm 1922, Pasquier đã soạn thảo những chỉ thị rất chi tiết cách thức dạy dỗ hoàng tử trẻ; chương trình nầy, ông nhấn mạnh, phải thực hiện ở Pháp và kết thúc ở An Nam. BĐ phải theo tân thời (tính chất Pháp) và theo cổ truyền (tính chất An Nam). Với sự đồng ý của vua cha bệnh hoạn gần chết là Khải Định, Sarraut và Pasquier đã tách hoàng tử xa cách thân nhân và giao cho một gia đình người Pháp chăm sóc và được đưa đến Paris để tiếp nhận một sự giáo dục quí phái.

Khi vua Khải Định chết, ông về nước lên ngôi rồi trở lại Pháp sau một thời gian rất ngắn năm 1926.

Tại mẫu quốc, chính quyền Đệ Tam Cộng Hòa đã thúc đẩy hoàng đế trẻ tham dự các mục tiêu thuộc địa rộng lớn hơn. Nhân dịp Triển Lãm thuộc địa toàn thế giới năm 1931, Pháp tổ chức cho BĐ một buổi ra mắt công cộng hết sức đặc biệt chưa từng có. Vị vua trẻ mặc long bào đóng vai cổ truyền và xa mới giữa một buổi lễ công cộng để vinh danh đế quốc Pháp.

BD ngồi chính giữa lễ đài khánh thành, ở vị trí yếu nhân có thống tướng Lyautey, toàn quyền Maroc, trong khi tổng thống Gaston Doumergue đọc diễn văn khai mạc; Sarraut và Pasquier, mặc đại lễ phục, đi hai bên hoàng đế bước xuống các bực cấp. Không có một vương lãnh thuộc địa nào khác được mời trình diễn uy quyền bảo hộ một cách uy nghi trọng thể như vậy. Hoàng đế VN không những là hiện thân của hợp tác Pháp Việt mà là một biểu tượng của đế quốc Đệ Tam Cộng Hòa Pháp. Nhưng có điều BĐ không một lời nói với thần dân muôn loại; dễ hiểu, người Pháp đâu phải thần dân của ngài. Trớ trêu chính ngài là một thần dân của đế quốc Pháp.

Sau các cuộc nổi dậy ở Bắc và Trung Kỳ vào lúc khủng hoảng kinh tế thế giới, Pasquier, lúc nầy là toàn quyền Đông Dương liên minh trở lại với Sarraut, vừa lên chức tổng trưởng thuộc địa. Chính lúc nầy phải đưa hoàng đế về Huế để trị các nhóm làm nguy hại trật tự thuộc địa. Trong thư riêng gởi Pasquier, Sarraut nhấn mạnh toàn quyền phải cấp thiết thúc đẩy hoàng đế dùng thiên mệnh kết hợp dân chúng thành một khối và không để dân chúng nông thôn chống lại Pháp. Phải làm cho BĐ nhận chân những điều chúng ta muốn: thấy sự vĩ đại của triều chính; chứ không phải bù nhìn, đừng để cho công chúng chán ghét cho là quá phục tùng Pháp, điều mà lòng kiêu hãnh của vua không chấp nhận. “Tôi gởi thư cho ông với sự xúc động nầy: tôi không thể vui mừng nếu phải nói: chúng ta đã sẩy mất cơ hội quý báu đang đến trước mắt nhà vua”.

Khi BĐ về nước năm 1932, Pasquier thúc dục BĐ ra khỏi cung điện, thực hiện một loạt kinh lý, được sắp xếp hoàn bị, ở các vùng vừa loạn lạc.

Sarraut lẫn Pasquier tin rằng dân quê nổi dậy vẫn là những kẻ bảo thủ khắng khít với nền quân chủ. Paul Reynaud, tân tổng trưởng thuộc địa ủng hộ ý kiến để BĐ với đầu óc cải cách cầm đầu chính phủ hoàng triều, cặp chung với một người thủ cựu là Phạm Quỳnh và một quan lại Thiên Chúa giáo trẻ và muốn cải cách, có tên Ngô Đình Diệm. Nhưng khi BĐ và NĐD đưa ra các đề nghị cải cách Pasquier gạt ngang. NĐD từ chức vì tin rằng sự hợp tác Việt Pháp là trò bịp. Khi Pasquier chết năm 1934, hoàng thượng dửng dưng tiếp nối các cuộc đi săn bất tận trong rừng sâu. Về phần quân chủ thuộc địa, chính phủ Vichy có làm ít nhiều những gì Đệ Tam Công Hòa đã hứa. Đối đầu việc chiếm đóng của Nhật và áp lực từ phía người quốc gia, toàn quyền mới Jean Decoux theo vết cũ muốn dựa vào vương quyền để kết nối người Việt theo lập trường của Pháp. Tuy nhiên, kết hoạch nầy thất bại một phần thiếu điều mới lạ và phần lớn vì BĐ chẳng tha thiết gì.

Nhà vua khéo léo tránh né Decoux bằng cách đi khắp Cao Nguyên trong những chuyến săn bắn dài ngày hay ra khỏi kinh thành khi Decoux muốn gặp. Năm 1942 Decoux đã than vãn riêng rằng BĐ không ngó ngàng gì đến các cố gắng của chính phủ Vichy nhằm gia tăng uy tín của vương triều. Như những người (của chính phủ) cộng hòa trước và sau, Decoux quên rằng vương triều không có thớ gì chống với phe cách mạng, chừng nào Pháp không chịu thống nhất các miền và cho vương lãnh đủ quyền năng thông thường của một thủ lãnh quốc gia.

Tình hình ở VN khá khác với tình hình Miên và Lào. Ở hai xứ nầy Decoux lần đầu tiên phát động hợp tác Pháp-Lào và Pháp-Miên để cầm chân người Thái Lan đã chiếm miền tây Đông Dương từ 1941 với sự hậu thuẩn của Nhật.

Decoux hướng về một hoàng tử trẻ và năng động, Norodom Sihanouk, chủ trì lễ đăng quan năm 1941 và thúc đẩy ông ta rời cung điện thực hiện một loạt kinh lý các tỉnh. Vị vua trẻ biết dân chúng ra sao và dân chúng có dịp chiêm ngưỡng ngài ngự. Sihanouk không quên bài học làm sao canh tân vương triều và huy động tiềm năng của xứ sở. Toàn quyền cũng đến Luang Pravang gặp vua Sisavang Vong. Để vô hiệu hóa việc Thái Lan đòi chủ quyền các vùng phía Tây, Decoux giao cho vua Lào quyền cai trị một số lãnh thổ mà Pháp đã giữ làm thuộc địa hơn nửa thế kỷ trước. Từ đó nước Lào thống nhất hơn thời trước khi Pháp chiếm. Làm việc nầy, Decoux cho biết ông không có ý định để cho vua VN có sự thống nhất nầy, tuy VN khác với Lào đã thống nhất trước khi bị Pháp chiếm.

Sống lưu vong ở Hongkong, năm 1948, BĐ biết người Pháp sẽ đến gõ cửa. Ông biết người Pháp sẽ không bị ngăn cản bởi những sự kiện: - BĐ đã thoái vị 1945; - BĐ đã yêu cầu de Gaules đừng tái chiếm VN bằng vũ lực; - BĐ tham gia chính phủ HCM; - BĐ hiện đang qui tập các nhóm quốc gia không CS để thành lập Lực Lượng Thứ Ba.

BĐ biết rõ các “nhóm mới” cầm đầu chính quyền thuộc địa, tinh thần ra sao, ý thức hệ thuộc địa ra sao. Nhóm nầy đứng đầu là Cao ủy Léon Pignon và các cố vấn bổ nhiệm vào thời Pasquier và Decoux.

Nhóm cộng hòa mới nầy cũng như các nhóm cũ đều tin tưởng rằng nền quân chủ có thể được sử dụng lại như một phương cách chính trị để đối đầu các lực lượng chống thuộc địa, thể hiện sự hợp tác Pháp Việt và qui tụ dân chúng vào lập trường của Pháp và cung cấp cho chính quyền thuộc địa một công cụ cai trị gián tiếp. De Gaules muốn đưa Duy Tân về; BĐ chống lại. Nhưng khi người Pháp đồng ý thống nhất năm 1949, khi Hồng Quân Tàu gần chiếm hết Hoa Nam, và khi Mỹ ủng hộ Pháp, BD chấp thuận trở lại làm Quốc Trưởng quốc gia liên hiệp ba miền.

Tuy nhiên, thay vì thúc dục Pháp chấp thuận nền độc lập chân thật đầy đủ, BĐ rút lui về Đà Lạt, hủy bỏ các cuộc kinh lý hoàng triều và không chấp nhận ý kiến cho rằng để cho dân chúng thấy mình là một phương pháp cai trị hữu hiệu. Sự thoái thác nầy làm cho người Pháp và người quốc gia không còn nghĩ như trước BĐ có khả năng chống lại Pháp và CS, là khẩu súng lệnh của vương quyền. Cuộc sống ăn chơi của BĐ không gây chút gì hy vọng. Từ giây phút đó hình ảnh của BĐ ghi khắc vào lịch sử là một con bài thuộc địa.

…..phần nói về Sihanouk ……………..

Sau chiến tranh Đông Dương, VN chia đôi, BĐ bị Ngô Đình Diệm hạ bệ, tiếp tục lưu vong ở Pháp và “tắt nến” 1997 trong lãng quên hầu như tuyệt đối. Năm 2006, trước bia mộ cẩm thạch của BĐ tại nghĩa trang Passy tề tựu những người sau đây: bà vợ thứ hai, thân hữu quý tộc, những kẻ bảo hoàng, những cựu chiến binh chiến tranh Đông Dương. Trong một bài diễn văn, “công chúa An Nam” gốc Pháp, đã đọc lớn tiếng lời của Pasquier trong lễ đăng quan năm 1922 của thái tử Việt Pháp như sau: Ngày Ngài nhận lãnh quốc ấn dùng trong định mệnh tương lai của Ngài, hai khuôn mặt uy danh đã nghiêng mình, cười mừng và bảo vệ Ngài: đó là người nhiều trí huệ và già tên An Nam và người dịu hiền và đẹp tên Pháp Quốc”.*

Thế rồi nước Pháp thuộc địa trở thành tro bui và tiếp tục quay cuồng trong cơn lốc.— Bao Dai, Monarque Colonial


Ghi chú ca người dch

Đây là một bài khảo luận trong tuyển tập Le Vietnam depuis 2000 ans, xuất bản bởi đại học Montreal, Canada; bằng tiếng Anh và được dịch ra Pháp văn. Goscha so sánh hai khuôn mặt trái ngược Bảo Đại và Sihanouk, tuy hai ông đều là vương lãnh thuộc địa, và đồng là dân chơi. Chúng tôi không dịch phần về Sihanouk vì nó chỉ đúng ở giai đoạn đầu, về sau Sihanouk không còn giữ thái độ trung lập 1953 và ảnh hưởng quân bình lực lượng ở Đông Dương. Nhiều bài điểm sách cho biết Sihanouk là con cắt kè đổi màu.

Câu cuối nhận định về BĐ có thể làm độc giả, nhất là độc giả Huế, không vui lòng là: Từ giây phút đó, hình ảnh của BĐ ghi khắc vào lịch sử là một con bài thuộc địa. Nhưng từ giây phút nầy là lúc BĐ về Đà Lạt hưởng thụ sau khi đã tuyên bố độc lập thống nhất tại Vịnh Hạ Long và sau khi đã chỉ định Trần Trọng Kim lập chính phủ. Duy Tân cũng được huấn luyên như BĐ, tại Huế Duy Tân học tiếng Pháp với một giáo sư danh tiếng Tòa Khâm đưa đến. Duy Tân chỉ biết tiếng Tây, hiệu triệu dân Việt bằng tiếng Tây.

Christopher Goscha được giới phê bình cho là khách quan khi viết về Đông Nam Á. Chúng tôi không có dịp đọc các sách của ông; chúng tôi đã dịch bài điểm của ông về Đông Dương. Goscha có cái nhìn chính địa rộng rãi. Riêng bài nầy chúng tôi không đồng ý khi Goscha viết: Bao Dai, même dans la mort, conserve son statut d'«empereur colonial ». [ngay đến khi chết BĐ vẫn còn giữ quy chế "hoàng đế thuộc địa"]. Có lẽ Goscha chia sẻ lối nhìn của Pháp, không muốn tách BĐ khỏi nước Pháp, vẫn là ông vua thời nước Pháp có "la grandeur" là một đế quốc thuộc địa.

Nhưng không nên viết sử theo cảm tính. BĐ đã thoái vị, và làm quốc trưởng một nước VN thống nhất; qui chế hoàng đế thuộc địa chấm dứt khi thành lập "Etat du VN". Chúng tôi tôn trọng tác giả nên vẫn giữ đầu đề vì nó tương ứng với nội dung, nhưng tùy tiện không dịch câu nói trên của Goscha.


nơi an nghỉ của Cựu Hoàng Bảo Đai, nghĩa trang Passy, Paris

==============================================

Đăng Đàn Cung để tưởng niệm

 ========================

Wednesday, September 22, 2021

cuốn sách cách mạng









Rất chi là cách mạng

The Most Revolutionary Texte Book in Vietnamese History

Lê Minh Khai * ttt dịch

Năm 1906, người Pháp đã soạn xong kế hoạch canh cải nền giáo dục ở Đông Dương, giao cho triều đình nhà Nguyễn thực hiện. Trước thời điểm nầy đã có những trường Việt Pháp, dạy chữ quốc ngữ và tiếng Pháp. Kế hoạch nầy không nhắm vào các trường nầy mà nhắm vào các trường học theo lối cũ.

Đặc biệt làng xã nào có 60 trẻ em từ 6 đến 12 tuổi, phải thiết lập một “ấu học công trường 幼學公場, là trường công cho trẻ em. Chương trình học gồm tiếng Việt và chữ Hán. Cả hai phần vụ nầy đều có sách giáo khoa.

Bài nầy chi nói về sách giáo khoa Hán Tự.

Sách nầy là Ấu Học Hán Tự Tân Thư 幼學漢字新書 (sách mới dạy chữ Hán cho trẻ em). Sách được biên soạn bởi ba giới chức của triều đình; có phẩm trật cao nhất là Dương Lâm  陽琳, thái tử thiếu bảo 太子少保 (thầy cấp hai của thái tử), thự hiệp đại học sĩ 署協辦大學士,phụ chánh.

Chắc gái của Dương Lâm – Duong Van Mai Elliot – đã viết về gia đình trong hồi kýThe Sacred Willow: Four Generations in the Life of a Vietnamese Family” như sau.

“Ông từ nhiệm năm 1902 khi mẹ mất và sau đó không lâu đã trở lại làm việc năm 1907 để viết sách dạy Hán tự cổ điển. Mặc dù chức vụ mới rất thấp so với các chức vụ cũ, ông rất hăng say vì đó là cơ hội giúp ông đóng góp duy trì nền học thuật xưa mà ông tôn quý. Nhưng năm 1910, người Pháp đã ra quyết nghị chỉ cho phép tổ chức lần cuối các kỳ thi của triều đình trước khi hủy bỏ toàn diện. Quyết định nầy đã chấm dứt nhiệm vụ của cố tôi. Và ông về hưu năm đó”.

Sự mô tả việc Dương Lâm soạn sách cho thấy khung cảnh văn hóa của thời đại. Cho thấy những ngày tàn của nền học vấn cũ vào lúc thế kỷ 20 mới bắt đầu. Quả là một hình ảnh bi sầu: một học giả theo truyền thống xưa, lúc về già, vẫn ra sức viết sách giáo khoa ngõ hầu gìn giữ một nền học thuật mà ông sùng kính vào lúc người Pháp đã quyết định chấm dứt nền học thuật nầy.

Nhưng cuốn sách của bà Elliot chưa phải là một hình ảnh đầy đủ và chính xác. Cuốn sách chữ Hán cho trẻ con của Dương Lâm mang một nội dung khác.

Từ hình ảnh của một trong những học giả cuối cùng trong cố gắng duy trì nền học thuật cổ, Dương Lâm đã trở thành một học giả cổ điển đầu tiên muốn tiêu diệt nền học thuật ấy.

Thật vậy, “Ấu Học Hán Tự Tân Thư” là tuyên ngôn khai tử của nền học thuật xưa.

Cuốn sách bắt đầu dạy từng chữ một, sau đó mới học từng câu. Những câu đem ra dạy không thể tìm thấy trong Tứ Thư Ngũ Kinh, hay các bài viết khác từ xưa của các tác giả VN.

Những câu ấy mang những tư tưởng đang luân lưu trong giới trí thức chủ trương cải cách ở Đông Á, những tư tưởng quốc gia, thuyết tiến hóa xã hội kiểu Darwin…

Bên dưới có phần trích vài đoạn mà Dương Lâm (cùng hai đồng tác giả Đoàn Triển 段展 và Bùi Hướng Thành 裴向誠) đã dạy trẻ con lòng yêu nước và hãnh diện giống nòi. Ngôn tự và cách diễn tả, so với thời bây giờ, còn đơn sơ nhưng đủ để nói lên các mấu chốt quan trọng của chủ nghĩa quốc gia VN.

河有源,源遠支流繁。
人有祖,祖肇山河固。

hà hữu nguyên,  nguyên viễn chi lưu phồn 
nhân hữu tổ
, tổ triệu san hà cố.

(sông có nguồn; nguồn xa mở thêm nhiều nhánh nữa; người có tổ [tổ ], những tiền bối khai quốc làm sông núi vững bền).

我為南國人,生長南國土。飲河當思源,愛國莫忘祖。
吾祖鴻龎氏,肇始經陽王。丁皇一統後,南族帝南方。
昔經北屬辰,舊恥已難忘。況念締造功,子孫宜自强。

Ngã nam quốc nhân, sanh trường nam quốc thổ.

Ẩm hà đương tư nguyên, ái quốc mạc vong tổ.

Ngô tổ Hồng Bàng thị, triệu thủy Kinh Dương Vương

Đinh hoàng nhất thống hậu, nam tộc đế nam phương.

Tích kinh Bắc chúc thần, cựu sỉ dĩ nan vong.

Huống niệm đế tạo công, tử tôn nghi tự cường.

Tôi là người nước Nam; tôi sinh trên đất của nước Nam. Khi uống nước, em hãy nghĩ đến nguồn. Yêu thương vương quốc, ta không thể quên tổ. Tổ của chúng ta [Ngô tổ 吾祖] là bộ tộc Hồng Bàng; người lập ra vương quốc là Kinh Dương Vương. Sau khi vua nhà Đinh thống nhất quốc thổ, các triều đại kế tục (Nam tộc 南族) đã cai trị miền Nam. Sau thời gian Bắc thuộc, sự tủi hổ không thể quên được. Nghĩ đến công trạng của tổ tiên khai mở xứ sở, con cháu phải tự lực tự cường.

木有種,一種枝條分,
人有類,氣血親同類。

mộc hữu chủng, nhất chủng chi điều phân 
nhân hữu loại
, khí huyết thân đồng loại.

Cây có giống, [chủng ] một cây giống sinh nhiều nhánh nhỏ.

Người có loài [loại ] cùng chung khí huyết.

我為南國種,我愛南國民。吾種同一胞,出自貉龍君。
歡言合保種,莫傷同類人。世代有更換,同類原相親。
南北有疆界,肥瘠非越秦。疴癢同分痛,榮辱聯一群。
吾族本非夷,吾種亦非卑。文風軋中國,武略開邊陲。
支稜走宋兵,白藤破元師。黎祖陳興道,赫赫聲名垂。

Ngã vi nam quốc chủng, ngã ái Nam quốc dân.

Ngô chủng đồng nhất bào xuất tự Lạc Long Quân.

Hoan ngôn hợp bảo chủng, mạc thương đồng loại nhân.

Thế đại hữu canh hoán, đồng loại nguyên tương thân.

Nam Bắc hữu cương giới.

A dưỡng đồng phân thống, vinh nhục liên nhất quần

Ngô tộc bổn phi di, ngô chủng diệt phi ti

Văn phong yết Trung Quốc, vũ lược khai biên thùy.

Chi Lăng tẩu Tống binh; Bạch Đằng phá Nguyên sư
Lê tổ Trần Hưng Đạo hách hách thanh danh thùy.

Tôi thuộc chủng tộc xứ Nam; tôi thương mến dân chúng xứ Nam. Toàn thể chủng tộc của tôi sinh ra từ một bào thai mẹ, xuất hiện trước tiên là Lạc Long Quân. Nam Bắc có biên giới riêng. Khi khổ cực thì chia sẻ niềm đau; dù vinh hay nhục, chúng ta hãy đoàn kết. Tộc loại của chúng ta không man rợ, giống nòi không thấp hèn.

Văn học làm Tàu phải kính nễ; sức mạnh quân sự mở mang bờ cõi. Chi Lăng đuổi quân Tống; Bạch Đằng dẹp tướng Nguyên. Lê Thái Tổ, Trần Hưng Đạo để lại tiếng thơm cho hậu thế.

***

Các sử gia thường lập luận rằng những tư tưởng quốc gia vào thời kỳ đầu đều do các nhà cách mạng như Phan Bội Châu đề xướng và quảng diễn. Phan Bội Châu quả có nói những điều như vậy, nhưng ông ở xứ người trong suốt phần đầu của thế kỷ 20.

Trong khi Phan Bội Châu lưu trú ở Tàu và Nhật và nói những lời nầy thì ngay trong xứ Việt có nhiều học giả như Dương Lâm bỏ hết tâm lực để cách mạng hóa lối suy nghĩ của giới trẻ. Những vị nầy không được gọi là nhà cách mạng vì họ không chú tâm đến việc lật đổ chính quyền, nhưng họ muốn lật đổ một hệ thống giáo dục thì có phải là làm cách mạng hay không?

Lối học cổ truyền vẫn còn muốn ảnh hưởng vào thời gian gần chết nhưng các quần thần triều Nguyễn – tuy đã thấm nhuần trong đó – không muốn cho nó tiếp tục hoành hành.

Dương Lâm là một trong những triều thần đó. Cuốn Ấu Học Hán Tự Tân Thư của ông không duy trì những thứ xưa cũ lỗi thời. Trái lại nó tìm cách mở ra con đường mới.

Với viễn tượng ấy, Ấu Học Hán Tự Tân Thư quả thực mang đầy tính chất cách mạng; không như cô chắc gái đã nói là duy trì nền học thuật cũ.

Duong Van Mai Elliot không đọc được Hán Tự. Nếu bà làm được việc nầy thì bà đã viết về ông cố một cách khác, chính xác hơn.---

nguyên bản The most revolutionary book


Phần ghi thêm của người dịch

Chúng tôi đã dịch khá nhiều bài của Lê Minh Khai.

Lê Minh Khai đã dùng mọi khả năng chứng minh sự nguy hiểm viết lịch sử theo lối hướng Việt (Vietcentric) cái gì VN cũng nhất và đưa đến những ngụy tạo. [Hơn mươi năm trước chúng tôi nhận được một cuốn sử từ một người không bao giờ đọc sử chứ đừng nói viết sử. Tác giả nói khi VN đã là một quốc gia có thể chế và tổ chức thì Nhà Chu bên Tàu còn là du mục. Bằng chứng là vua Chu tương lai đã họp các tù trưởng trên một cánh đồng cam kết diệt Trụ, gọi là mục thệ. Tôi hy vọng đoán đúng ông lấy tài liệu của ai. Nhà Chu bắt đầu năm 1046 trước TC, tiếp nối văn minh của nhà Thương đã định cư từ lâu. Vua Trụ thua trận cuối cùng gọi là Mục Giả, sử không ghi vụ thề thốt, mục thệ].

Lê Minh Khai cho rằng đa số các bản dịch từ Hán Tự các tài liệu về Nhà Nguyễn đều sai lạc vì dịch giả không hiểu chữ Hán. Nhiều sử gia trên thế giới không biết chữ Hán mà viết về VN. Vui nhất là Chandler, vua có sách về sử Đông Dương đã viết tháng sáu (Lục Nguyệt) là June; âm lịch và dương lịch trẻ con cũng biết khác nhau.

Lê Minh Khai cho rằng những cố gắng cải cách của các vua Nguyễn và triều thần không được đề cập. Giới học thuật VN tuy không bằng Nhật, không thua kém Tàu. Có lẽ vì vậy Dương Lâm đã viết: văn phong yết Trung Quốc. Người Nhật thì không nói rồi, chính họ là cô mụ sinh hầu như 80% những thuật ngữ hiện nay như các chữ triết lý, xã hội, dân tộc. Những tác phẩm của một số học giả VN trong triều không kém chi của Nhật nhưng bị ém vì nhiều lý do, nhất là hệ thống tuyên truyền “cách mạng”.

Trong bài nầy Lê Minh Khai cho biết Phan Bội Châu và nhiều nhà cách mạng không ở trong nước; trong lúc ấy Dương Lâm và các đồng nghiệp chung dụng với dân chúng và trực tiếp truyền bá các tư tưởng mới. Chúng tôi liên tưởng trường hợp Hồ Chí Minh là người đầu tiên và duy nhất về nước hoạt động tại Pac Pó. Giới nghiên cứu chính trị và quân sự cho đó là một trong những yếu tố thành công của HCM tuy lúc ông về chỉ có một nhóm nhỏ thổ dân ủng hộ, và được Chu Tấn, một tù trưởng, giúp sức. Đây là một nhận định thuộc khoa học xã hội, đứng ngoài thương ghét.

Dù muốn dù không, nghiên cứu của Lê Minh Khai đã giúp sức cho thấy những việc làm của nhà Nguyễn. Như ai thành lập trường Quốc Học. Đã một thời chính thức nói là ông Ngô Đình Khả, rồi đến toàn quyền Rousseau. Tác giả đưa bằng chứng là vua Thành Thái, tuy hai ông Khả và Rousseau thi hành kế hoạch.

Về phần bài dịch, chúng tôi không biết chữ Hán nên dịch từ phần dịch của tác giả; chúng tôi dùng từ điển Thiều Chửu phiên âm chữ Hán. Nếu có chỗ sai về phần chúng tôi hay của tác giả xin chỉ giáo và có thể comment trên blog của Lê Minh Khai.

 ♪ ♪ ♪ ♪ ♪ ♪

Violin Romance Beethoven


những ngày tháng cu



Friday, September 10, 2021

chuyện vô duyên

 

Pleiku 1970






chuyện vô duyên

Tôn Tht Tu

Dạ thưa, bên ngoài lá đã vàng nhiều tuy mới đầu tháng chín tây. Cảnh vật và lòng người đều buồn. Tôi sợ nhất những lần ngủ trưa dậy, một vùng biển nhớ, có ngàn sợi tóc đưa tay em trói. Tôi không thiếu thì giờ vì độ nầy ít làm việc bên ngoài, già rôi, nhưng không ngủ trưa.

Tôi không xin gì ở các con; chỉ có cái ghế nệm xẹp lép, các thứ đàn hồi hết đàn hồi, nhưng cứ ngồi đọc trên computer vì sách báo giấy không đọc rõ nữa. Thằng con tự ý đi mua cho cái ghế rất êm; hai tay có chỗ dựa; lưng ghế rất cao, ngả người, đầu còn nguyên trong ổ bành như đang kê trên gối. Mỏi mắt, mỏi lưng, mỏi ý tưởng, sợ đời hành hạ bằng tin nhãm, tôi ngả lưng nghỉ thì lại ngủ, đúng là ngủ gà ngủ vịt, ngủ gà ngủ gật.

Ấy, trong khoảnh khắc bí mật của cái gọi là ngủ, biết bao điều trổi dậy, đánh thức. Buồn ghê lắm, sống giữa mộng và thực. Với cái ghế nầy, một ngày ngủ trưa, ngủ ngắn, ngủ chút xíu đến ba bốn lần; ba bốn lần đau khổ, tiềm thức sống dậy.

Tôi nuôi rất nhiều gà tre; chúng sống từng đàn, chia nhau khu rừng nầy. Ngồi trong nhà, sao độ nầy không nghe cái phong linh như tiếng chuông mơ hồ qua đồng Bàu Vá, mà lại nghe gà tre gáy. Có lẽ vì nhớ lại những giờ trưa trong nhà tù, xa xa có gà tre, không biết gà nhà ai đó, mình có ở gần người hay không, hay gà hoang. Trưa nằm rừng tội gà hoang gáy, thương con nhớ vợ ruột đứt ngang. Mà gà tre, chúng gọi nhau trong cuộc sống bình thường, nhưng mình thì xem như tiếng gọi trẻ thơ, gọi tìm cha mẹ hay người thân, trong cảnh ly loạn trần ai. Lạc lõng vô vọng, xa xăm như tiếng xe bò lạch cạch, của giới thượng lưu thời cách mạng mới, nó rất xa xôi với mình.

Những giấc ngủ ngày ấy, nó đau đớn cách khác. Tôi muốn nói cái đau đớn sau khi ăn một chén cơm vơi, một ngày hai lần. Phản xạ tự nhiên của cơ thể tạo ra một lượng a xít cần thiết để tiêu thụ một số thực phầm cần có; a xit dư dùng không có thức ăn mà tác dụng thì nạo lại ruột mình; cả giờ sau mới hết. Cái đói trong ngày không trực diện với một khả thể có ăn, nó êm dịu, không có a xít tấn công.

Bây giờ no đủ, thì cái đau xót tinh thần còn ghê rợn hơn. Có lần thức giấc thì thấy đang đứng góc chợ Bến Ngự quần rách áo xơ nhìn qua nhà cũ thời oanh liệt. Tiếng gà tre như ai oán trong lòng không nói ra được. Đội mưa qua Tam Tòa nhà bác xin được tiền ra Tinh Hoa mua cuốn sách toán của Trần Tiếu, hôm sau có thằng lấy mất; chúng bạn nói thằng kia tên gì; nếu đúng thì nhớ nó ở chỗ mô, con ai cháu ai. Nghi ngờ thì không nên quyết đoán.

Tôi đã thưa, ngủ trưa nghe nhà bên cắt cỏ mà tưởng tiếng phi cơ vận tải đến tiền đồn cô quạnh, thả dù lương thực, đạn dược và, nếu có, thư từ của người tạm gọi là yêu. Nếu không có thì hát bài cũ: Lần sau nhé nhớ đem cho em một lá thư tình. Ôi ảo vọng, cái nàng kia mình gặp lớt phớt lưa thưa, như kiểu đi lên đi xuống phố núi Pleiku lại về chốn cũ. Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai bôn lưu đáo hải bất phục hồi. Ngươi không biết nước Hoàng Hà từ trên trời tuông xuống bể không vời trở lại. Nàng đã xuôi dòng trở lại làm sao được. Thiệt vô duyên.

----------------------------------------------------------------------------

Beethoven, piano concerto n.3 * largo

 ♪