Ý Nghĩa Thị Hiện của Phật Đản
Lữ Hồ, 1968
lời giới thiệu
Lúc ấy vào giữa chiều 29 tháng 04, tôi ngừng xe
Honda trước cửa nhà thường được nói là của Nguyễn Cao Thăng vì thấy Lữ Hồ đang
đứng bên vĩa hè mặc bộ bà ba trắng. Lữ Hồ
- bảy năm sau khi viết bài nầy - vui buồn không để lộ nhưng có lạ là
không ngậm ống điếu. Cả hai chúng tôi nhìn theo chiếc xe jeep trắng mui trần
chạy hối hả trên đường Phan Thanh Giản về hướng xa lộ Biên Hòa; Trần Văn Đôn
ngồi trên ghế trước. Sau vài câu chẳng nằm đâu, tôi ra về để tiếp nhận cái rời
rả của đô thành như con cú đã thấy mùi tử khí của con bệnh trong nhà để đón đi
cho ma ăn (ngạn ngữ: cú kêu ma ăn). Hơn ba năm sau, tôi từ vùng kinh tế mới về
thăm Saigon, tôi ghé lại nhà LH ở Gia Định. LH ở một mình, vợ con đã đi Pháp,
anh lại vừa qua khỏi bệnh nan y bằng cách chú tâm niệm Phật.
Hơn mười năm trước nữa, chính tại căn nhà nầy LH
biếu vợ chồng tôi cái bao lì xì Tết với khoản tiền khá lớn, anh nói tôi khỏi
cảm ơn vì là nhuận bút một bài tôi viết về đứa con của Bokassa. Tôi giờ nầy
cũng quên mất tờ báo của LH. Dạo ấy LH ngồi ké trong tòa báo Đời của Chu Tử.
Lúc ấy LH có viết về Tây Du Ký; tôi không đọc; nhưng LH nói anh ca ngợi Chư Bát
Giới, tượng trưng cho nhục thể, cho bản năng, cần thiết cho một cuộc sống.
Trong lúc ấy người ta chỉ chú ý đến Tôn Ngộ Không, như một loại trí thức mà
quên rằng trí thức ấy đã mang một mối nguy trong mình cho nên cần có kim cô
điều khiển khi thái quá. Tuy vậy đây chỉ là một truyện Tàu, tự nó không mang
tính cách giáo lý cũng như Tam Quốc chưa phải là lịch sử như nhiều người tin
tưởng. Ở điểm nầy LH có phần nào mâu thuẩn khi viết trong bài nầy: Ngài Huyền Trang chỉ là một vi cao tăng có chí lớn, trèo
non, lội suối qua Ấn Độ thỉnh kinh mà các văn sĩ Trung Hoa cũng ghép vào mấy
chú Tề Thiên, Bát Giới, Sa Tăng với 72 chúa yêu.
Về thị hiện, lối dễ hiểu nhất là chỉ có con rắn đực mới
thấy con rắn cái đẹp. Lối khó hơn là kinh
Pháp Hoa: Ta thành Phật từ muôn vạn kiếp trước không thể nào đếm được
tuy rằng tất cả trong thế gian trời, người, a tu la đều nói Phật Thích Ca rời
cung thành họ Thích đến thành Dà Gia ngồi nơi đạo tràng, cách nay thật không xa
chứng vô thượng chánh giác.
Thị hiện là biểu lộ một phần nhỏ của một thực thể
không thể thấy, ví như nhiệt lượng cần những chất dẫn như không khí, nước v.v…
điện cũng thế, nó hiện diện khi ta nấu, sấy tóc. Một ví dụ không chính xác
nhưng gần gũi: hình ảnh một xướng ngôn viên trên TV, người ấy không chỉ ngần ấy
thôi; trước và sau khi ra khỏi màn hình có cả một thế giới không nhìn thấy
được.
Thị hiện có tính chất kỹ thuật, cần nhưng chưa đủ
(nói theo lối toán học). Thị hiện vào Diêm Phù Đề, Phật không từ bỏ tục đế tuy
mục đích cuối cùng là chân đế. Mặt trời đâu có lên xuống đông tây, mà làm gì có
hướng đông tây nhưng Ngài phải nói phương đông, tây thì chúng sinh mới hiểu.
Chân đế và tục đế không xa lìa nhau. Trong kinh Niết Bàn, Ngài nói rằng Phật
cũng như trâu bò sinh trong bào thai, nhưng không thể nói rằng Phật chỉ là trâu
bò.
Ngài nói: Ta là con vua Tịnh Phạn nhưng ta cũng là
Như Lai (vào thời Pháp Hoa, Ngài giảng với tư cách Như Lai).
Có sự trùng hợp với Chúa Jesus Christ (liên hệ hai
tôn giáo nầy sẽ trình bày sau): Ta là con của người và là con của trời. Thật
vậy, con của người là con của bà Marie, con của Trời tức là thuộc một chân lý
vĩnh cửu như pháp thân.
Bế tắt của Tây Phương là không nhìn theo lối thị
hiện và chỉ nhất quyết Jesus chỉ có một tư thế là con của Trời mà thôi. Họ đã
đi truyền đạo bằng cách nói Phật chỉ là con ông vua còn Jesus là con Thượng Đế
mới đáng theo. Tây Phương đã đi rất xa với Đạo Chúa nguyên thủy (christianisme
primitif) như Nghiêm Xuân Hồng có nói. Biến thái nầy đã đưa đến quan điểm thần
học khắc nghiệt và thiếu nhân bản.
Tam thế chư Phật đều thị hiện, như trong Pháp Hoa:
Như Lai quảng diễn kinh điển độ thoát chúng sinh, khi chỉ việc mình, khi chỉ
việc người, khi chỉ thân mình, khi chỉ thân người. Qua thị hiện, có người nói
rằng Phật giáo siêu mà không cao, siêu là xuyên thấu tất cả nhưng không cao xa,
xa vời với con người. Âu cũng là một cách nói. ttt
Ý Nghĩa Thị Hiện của Phật Đản
Lữ Hồ, 1968
Nên hiểu một cách đơn giản: “Phật là
giác ngộ” thì ngày Phật đản chính là thời điểm của ánh sáng giác ngộ ra đời. Sự
hiển hiện của con người xuất thế tại vườn Lâm-tỳ-ni vào một ngày trăng tròn
cách đây 2592 năm (tính theo thời điểm 1968) là hình ảnh của chân lý viên dung.
Ngày Phật đản cho tới nay đã được các nhà bác học, văn nghệ, truyền giáo thuật
lại với nhiều vẽ linh động, nhiều dữ kiện huyền bí. Có sách nói Ngài đã từ
trong cánh tay vương mẫu bước ra, bước bảy bước trên bảy hoa sen nở tươi dưới
gót, miệng nói “thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Có người theo khuynh
hướng khoa học lại cứ đoán chắc Đức Phật ra đời không khác mọi người trần tục.
Những gì là quả đất rung chuyển, hoa đàm mưa xuống, hương thơm sực nức đều là
những điều tô điểm của người sau. Chung quy, một đàng coi Đức Phật như một bậc
tiên thánh thần thông, một đàng nhìn Ngài dưới lăng kính của giác quan thế tục.
Nhưng điều quan hệ không phải ở đó. Điều chính yếu là Phật
với chân lý, Phật với giác ngộ là một. Sự đản sanh của Phật là sự xuất hiện của
Giác ngộ.
Có người bẻ lại rằng: Nếu thái tử Tất Đạt Đa đã giác ngộ từ
phút sơ sinh thì:
– Tại sao Ngài phải du ngoạn bốn cửa thành rồi mới chứng
được hệ luận thứ nhất: “Đời là bể khổ” qua thực tế “sinh, lão, bệnh, tử”?
– Tại sao, sau khi cưới vợ, sinh con, rồi đợi một đêm trăng
tròn tháng hai, Ngài mới lìa xa cung vàng điện ngọc, đổi thay trang phục vương
giả để lấy tấm áo chăn chiên, đi tìm chân lý?
– Tại sao, Ngài phải đi qua con đường khổ hạnh, phải suy tư
sáu năm ở Núi Tuyết, rồi một sớm ngày trăng tròn tháng chạp mới chứng ngộ được
chân lý giải thoát?
Xem thế, con đường tầm đạo của Đức Phật, tưởng cũng không
khác với con đường khảo nghiệm, phát minh của các triết gia, khoa học.
Suy ra, những vấn nạn trên không vượt ra ngoài ý niệm căn
bản: Đức Phật chỉ là một con người
như mọi con người. Và nói theo luận lý thì những khám phá của Đức
Phật, dù thuộc phạm vi siêu hình hay biểu tượng, cũng chỉ là kết quả của một
chuỗi suy luận lâu dài chứ không phải là một trực kiến siêu việt như người ta
hằng ca tụng. Đức Phật là một siêu nhân chứ không phải là đấng siêu nhiên. Thật
ra, nếu đứng trên quan điểm thường-nghiệm như vậy, ta sẽ không bao giờ hiểu
được ý nghĩa nhân bản của Đạo Phật, của Phật đản, của các Đức Phật.
Điều trước tiên, ai cũng thấy rõ, Chân lý có thể đến trong
trí tuệ nhân loại bằng hai đường: thấy và
tìm. Thấy được chân lý là con đường trực kiến. Tìm chân lý là con đường suy
nghiệm. Những chân lý trong những lãnh vực khoa học, tư tưởng đều phát sinh từ
suy nghiệm. Điều ấy đã hiển nhiên. Những khám phá của khoa học, triết học ngày
một tiến tới. Lý thuyết sau thay thế lý thuyết trước. Nguyên lý nọ đạp đổ
nguyên lý kia. Quá trình phát triển của khoa học, triết học, là một chuỗi chân
lý kế tục thay thế nhau, chen lấn nhau khiến cho nhân loại cứ đi mãi về cái đối
tượng “chưa tìm thấy” ở
đàng trước. Chưa tìm thấy thì chưa có thể tin. Chưa biến thành đức tin thì còn
phải quanh quẩn ở phê phán. Nhờ tìm thấy mãi, các nhà khoa học, triết học đã có
một ảo giác là đi vào quang phổ chân lý lung linh màu sắc mà càng ngày càng cảm
thấy bơ vơ! Các triết gia cho yếu tính của triết học là hoài nghi. Không hoài
nghi cái “hiện có” thì không còn ai đi tìm cái “chưa có” nữa. Như
vậy, những điều khám phá được mệnh danh là chân lý trong khoa học, triết học,
đã không có giá trị tuyệt đối. Đã tương đối thì phải đối đãi, phải so sánh và
đương nhiên không thoát khỏi thăng trầm. Đức tin cốt yếu của nhà khoa học,
triết học là phải công nhận những khám phá của mình không có giá trị vĩnh cửu
dù rất phổ quát và tất yếu. Phổ quát vì áp dụng rất đúng với sự vật. Tất yếu,
vì đó là những bậc thang của lý trí không thể thiếu để hoạt động. Tin mình
không tin như thế là tự thú một mặc cảm, xác nhận một trình độ. Mặc cảm về khả
năng tương đối của suy nghiệm, thú nhận sự bất lực của những công trình nhân
tạo.
Ngược lại, “thấy” Chân lý là trực giác ngoại lý siêu
việt của đấng xuất thế. Thấy chân lý là trực kiến được quy luật sâu xa chi phối
mọi hiện tượng hữu hình, mọi định mệnh chi phối thân phận con người. Đã là trực
kiến thì không thể biện giải được. Bởi thế, con người đạo học trong khi suy
nghiệm chân lý giải thoát là để thấy rõ cái thấy vi diệu của chư Phật chứ không
phải đi tìm. Theo Phật mà đi tìm Phật thì có khác chi ngồi với chủ nhà lại đi
tìm chủ nhà. Mọi sự biện giải đều là phương tiện để thấu hiểu chứ không phải để
bài bác, biện giải. Muốn biện giải thì phải nhờ tới suy nghiệm, mà phương tiện
này không thể đạt được cái tuyệt đối, thì dù có mượn cũng không dùng được và
nếu gượng ép thì lại làm cho chân lý bị phân hóa đi. Trước nay, đã có nhiều
người cố gắng biện giải đạo Phật qua lăng kính triết học, khoa học. Ta phải
nhận rằng, nhờ họ mà ánh sáng chân lý trở thành lung linh nhưng họ cũng làm cho
ta choá mắt và không vượt nổi hình thức, giáo điều. Biết đạo chưa phải là hiểu
đạo. Hiểu đạo chưa phải là hành đạo. Hành đạo cũng chưa phải là liễu đạo.
Chân lý giải thoát của Phật đã tuyệt đối, không thể biện
giải được. Đã không biện giải được thì làm sao mà truyền bá cho quần sanh?
Trong mục đích này, chư Phật đã dùng một phương tiện để cảm
thông: Đó là thị hiện.
* * *
Thị hiện là
gì?
Tức là đem cái vô hình lồng vào cái hữu hình. Là cụ thể hóa
các ý niệm trừu tượng. Là đem những gì ở lĩnh vực khả tri gắn liền với hiện
tượng khả giác. Phật đản, Xuất gia, Thành Đạo đều là những biểu thị chân chính
của đạo Phật. Một triết gia hiện đại có nói: “Cho dù Thượng đế có tạo ra con
người chăng nữa, thì sự hiện hữu của Thượng đế cũng phải biểu hiện qua sự hiện
hữu của con người”. Quả vậy, ý niệm Thượng đế chỉ có thể tồn tại qua những
chứng tích của con người. Ai chẳng biết Thượng đế chỉ là một ý niệm sơ khởi. Ý
niệm ấy được các người hữu thần gán cho cái khả năng sáng tạo muôn vật, nhưng
nếu không có sự hiện hữu của muôn vật thì lấy ai để cho biết là có Thượng đế
đây? Tôn giáo nào cũng có tượng ảnh, nghi lễ, kinh sách, giới luật, văn
chương... tức là đã vay mượn các công trình sáng tạo của con người. Đã có tượng
hình là đã vay mượn cái hình thể con người. Có thờ phụng là có mượn công trình
kiến trúc, xây dựng của con người. Có kinh sách là có mượn ngôn ngữ, văn tự.
Và, giới luật là gì? nếu không phải là những hình thức, khuôn khổ ghép con
người vào phương tiện để đi vào cứu cánh? Cho nên, dù con người dù có thấp hèn,
ngu dốt, vẫn là trọng tâm của mọi hiện hữu của thế gian. Vì đó, ta có thể nghĩ
rằng: “nếu không có con người thì lấy ai để chứng minh cho sự hiện diện của Thượng
đế?” Ấy vậy, lắm nhà thuyết giáo vẫn không chịu xác nhận sự hiện hữu nhân bản,
sự hiện hữu của con người.
* * *
Đức Phật đã không vào đời với con đường ấy. Đức Phật không
phủ nhận sự hiện hữu nhân thể. Trước tiên, Ngài là một nhân vật có được phụ mẫu
sinh dưỡng theo quy luật sinh tử của con người phổ biến. Hoàng hậu Magia cũng
hoài thai như muôn ngàn thiếu phụ khác. Đúng ngày sinh nở, Thái tử Tất Đạt Đa
cũng chào đời qua lòng mẹ như mọi trẻ khác. Có điều, Ngài là một bậc vương giả,
sinh trong gia đình quý tộc, phong kiến, giữa thời đại đa thần thì tất nhiên
các quan thái sử chẳng ngần ngại gì mà không thêm bớt một vài huyền thoại cho
vị hoàng đế tương lai! Đến khi Phật giáo truyền qua Trung Hoa, thế giới của
truyện ma quái, thì tiểu sử của Ngài lại được nhuộm thêm một phần hoang đường
huyền bí nữa. Rất đổi, Ngài Huyền Trang chỉ là một vi cao tăng có trí lớn, trèo
non, lội suối qua Ấn Độ thỉnh kinh mà các văn sĩ Trung Hoa cũng ghép vào mấy
chú Tề thiên, Bát giới, Sa tăng với 72 chúa yêu, muốn cho Ngài muốn gặp Đức
Quán Thế Âm lúc nào thì gặp, huống nữa là đức Bổn sư? Cũng may là các nhà văn
ấy chưa dám tiểu thuyết hóa đời Ngài như một ông văn sĩ nước ta bây giờ. Dù
vậy, các khuynh hướng thần lý trong tư tưởng học thuật Trung Hoa cũng đã lũng
đoạn Chân lý không phải ít!
Lớn lên, Thái tử cũng biết nóng đến phải ở cung mùa hè, cũng
rét đến ở cung mùa đông và cũng sẽ có vợ con như nghìn triệu con người khác. Tuy
nhiên, những dữ kiện đầy nhân tính ấy không chứng tỏ Đức Phật trong tương lai
chỉ là một kẻ nhân giả tầm thường mà chính Phật đã thị hiện nhân bản để gây nên
cái ý thức tự cứu nơi mỗi con người. Đạo Phật không truyền bá sự cứu
rỗi, không ai cứu ai được. Mỗi cá nhân được chư Phật chỉ cho sự u mê, vạch
đường chân lý thì phải tự mình tu tập để tự cứu. Cùng một lẽ đó, nếu Đức Phật
giáng trần như một bà tiên cho phép lạ thì có ngay hai cái hại: Một là, con
người nảy ra tính ỷ lại. Hai là, không tin mình có thể tự cứu lấy thân phận
mình. Vì vậy, Đức Phật đã lấy đời người làm điểm xuất phát. Đản sanh, xuất gia,
thành đạo, nhập diệt. Bốn giai đoạn, bốn bước tới Chân lý từ thấp đến cao. Thật
rõ ràng và thực tế biết bao nhiêu? Đức Phật đã không chối bỏ con người, Ngài
lại cũng không quên sự ràng buộc đớn đau của hoàn cảnh. Sống trong một hoàn
cảnh kiêu xa như Thái tử Tất Đạt Đa mà nói tới sự “bỏ tất cả để được tất cả”
không phải là một điều giản dị. Người ta chỉ chối bỏ hiện tại khi bị đau khổ,
nghịch lý áp bức. Chính Thái tử đã không chịu được sự thống khổ đó. Nếu chỉ có
những người cùng hoàn cảnh mới thương mến nhau, thì phải nói Thái tử Tất Đạt Đa
là con người lẻ loi nhất thời đó và trong xã hội nhiều giai cấp như Ấn Độ,
không ai có được hoàn cảnh quyến rũ như Ngài. Cần phải có sự giao tiếp với tha
nhân, với ngoại cảnh. Thế rồi, nhân cuộc du ngoạn, Ngài cảm được sự đau khổ của
những con người không cùng chung giai cấp, tuổi tác, hoàn cảnh. Sự thông cảm ấy
đương nhiên khó mà có ở thường nhân. Đức Phật không phải nhờ học nhiều sách,
nghe nhiều thầy mà nhận định được “Đời là bể khổ”. Có bao giờ phụ vương
Tịnh Phạn lại dám để cho Ngài buồn đâu? Tự Ngài đã thấy, đã trực kiến, đã chấp
nhận sự đau khổ của tha nhân và cũng là của tự thân, tức cái thân phận con
người. Và rồi, Ngài lẫn tránh mọi phiền trược để đi tìm Chân lý.
Chính đây mới là vấn nạn lớn nhất của những người chứa đựng
óc thực nghiệm. Họ cho rằng: “Phật phải tu luyện, phải suy tư rồi mới thấy
được Chân lý”? Ngài là một triết gia như mọi triết gia. Và, vì Ngài xuất
chúng quá nên Bertrand Russel đã suy tôn là đại tư tưởng, đại giáo dục, v.v...
Để hiểu được ý nghĩa thâm diệu của giai đoạn này, ta cần lưu
ý tính cách liên tục suốt cả hành trạng của đời Ngài, một chuỗi thị hiện thuần
nhất rất phù hợp với quy thức Tứ đế sau này. Từ giai đoạn đản sanh là
một biểu thị nhân bản đến việc du ngoạn chứng kiến cảnh sinh, lão, bệnh, tử là ý
thức tự giác, đến giai đoạn này là giai đoạn tìm chân lý, vẫn có một
tiến trình điều hòa vi diệu. Thực vậy, trực kiến chân lý là diệu năng của chư
Phật. Thế còn chúng sanh thì có trực kiến ấy không? Vậy thì, nhận biết chúng
sanh không thể có trực kiến để thấy được tuyệt đối, sáu năm suy tưởng của Ngài
ở Tuyết sơn là bài học cho thấy: con đường suy nghiệm dù chỉ có giá trị tương
đối, không giúp chúng sanh thấy được chân lý và chỉ vẫn có thể nhờ đó mà tìm
tới chân lý do Đức Phật đã trực kiến mà thôi. Công việc này có khác chi nhà
triết học sau khi tìm ra tư tưởng đã phải dùng tư tưởng để giúp cho mọi người
hiểu được tư tưởng của mình. Cao hơn nữa, Đức Phật lại cho rằng Chân lý không ở
ngoài con người. “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”.
Cái ý thức tự giác đốt lên trong tâm hồn của từng cá nhân. Và ý nghĩ của chuỗi
ngày suy tư dưới gốc Bồ Đề chỉ bao hàm một ý dụ là bất cứ một chúng sanh nào,
nếu chịu y cứ vào giáo pháp thì đều có thể chứng ngộ được chân lý giải thoát do
Ngài đã trực kiến được.
* * *
Kỷ niệm Phật đản, căn cứ vào những dữ kiện đã trình bày ở
trên, ta có thể rút ra những hệ luận sau đây, nói về sự thị hiện của Phật
giáo:
1. Đức Phật chấp nhận nhân bản tính
Đức Phật không bao giờ tự xưng là đấng sáng thế mà
chỉ bày tỏ thiện niệm cứu thế. Có người nói: “Tôi không chấp nhận
sự hiện hữu của ông sáng thế, vì ổng đã bày đặt ra lắm trò rắc rối, chỉ làm khổ
cho chúng sinh. Ông càng có lại càng làm thêm rắc rối cho nhân sinh. Tôi chỉ
thờ phụng đấng cứu thế mà thôi. Ai cứu tôi, cứu cuộc đời quanh tôi khỏi khổ đau
là tôi thờ phượng”. Ý nghĩ ấy kể cũng có phần chua chát đấy nhưng vẫn thâm trầm
lắm. Thật vậy, Đức Phật đã không tự phong cho mình chức vụ sáng thế mà chỉ muốn
hoàn thành nhiệm vụ cứu thế. Thiện nguyện của Ngài đã đi trước thời đại hằng ba
mưoi thế kỷ và để hoàn thành thiện nguyện ấy, Ngài cũng không tạo ra những phép
thuật mầu nhiệm để phạt tội, đe dọa hay tha tội cho ai như một vài tôn giáo đã
chủ trương. Ngài đã đản sanh trong nhân thể, nhân cách của con người. Ngài gợi
ra cái ý thức tự cứu của cá nhân. Sống trong một xã hội phong kiến, trong khi
nhân loại còn đắm trong hoang đường, thần lý, mà Đức Phật lại đề ra một phương
thức tự giác như vậy thì quả là táo bạo và tiến bộ. Táo bạo vì sẽ không thoát
tay bọn phù thủy Bà la môn. Tiến bộ vì không chịu mặc lấy bộ áo hoang đường.
Thuận theo sự tiến triển của tư tưởng nhân loại thì trong trạng thái thần lý
(état théologique) như Auguste Comte nói: “con người chỉ chấp nhận những gì
hoang đường huyền bí, mà phủ nhận những gì hiện thực”. Đức Phật đã đi ngược
lại. Người đi vào con đường của khoa học hiện tại. Nếu có ai đã đọc cuốn kinh
“Báo phụ mẫu ân” tức thấy Ngài diễn tả sự biến hóa của cái bào thai trong bụng
mẹ rất kỹ càng không khác gì khoa phôi sinh học ngày nay. Hơn nữa, Đức Phật bắt
đầu việc truyền giáo từ ý thức tự cứu tức là Ngài “tìm sự giác ngộ cho mình”
rồi mới “đem bốn mươi chín năm đi giác tha” cho nhân loại.
2. Đức Phật lấy nhân bản để hướng lên Siêu việt
Ở trên, căn cứ các dữ kiện, ai cũng thấy Đức Phật đi vào lòng
người để cứu rỗi con người. Dù vậy, những chất người trong đời Ngài chỉ có tính
cách biểu thị mà thôi. Chứng cớ, sau bốn mươi chín năm thuyết pháp, Ngài đã
tuyên bố là “chưa từng nói một lời gì” hoặc “giáo lý là ngón tay trỏ,
Chân lý là mặt trăng”. Không nên bám vào ngón tay (phương tiện biểu hiện)
mà quên Chân lý. Ngài đã dùng cái “cụ thể” (hình hài, ngôn ngữ, hành
trạng) để biểu hiện cái “trừu tượng” là Chân lý. Ngài đã đản sanh và
hành đạo qua nhân thể là đem cái khả tri gửi vào biểu tượng khả giác cho mọi
chúng sinh từ sơ cơ tới thượng tri đều có thể hiểu được, bắt chước mà làm theo
được? Dù vậy, với hệ luận “thành, trụ, hoại, không”, Ngài luôn luôn nhắn nhủ
cho nhân loại thấy mọi biểu tượng đều giả trá, tạm bợ. Đó chỉ là “bọt trong bể
khổ, bèo đầu bến mê”. Thuyết tương đối của Einstein hiện đại đã làm cho ánh
sáng Chân lý của Đức Phật thêm hiện thực. Các cuộc du hành không gian hiện tại
nào có thoát ra khỏi “ba ngàn đại thiên thế giới” do Đức Phật phát kiến? Những
khám phá của khoa học, triết học hiện tại chỉ là những dẫn chứng cụ thể cho
giáo lý vi diệu của Đức Phật. Cũng vì đượm nhiều nhân bản tính, đạo Phật đã
không mâu thuẩn với khoa học, triết học. Nhờ ở viễn kiến của Ngài mà Phật giáo
đã không vấp phải một trận thánh chiến nào, dù trong lãnh vực tư tưởng. Nhà
khoa học chủ trương đả phá thần quyền. Đạo Phật không đề cao thần quyền thì làm
sao trở thành đối tượng đả phá của họ được. Triết học chủ trì hoài nghi nhưng
làm sao nghi ngờ được Chân lý Phật giáo khi mà họ chưa đạt được cả ba đối tượng
Chân, Thiện, Mỹ? Nhà chính trị cũng không phủ nhận giá trị đạo Phật vì trong
công cuộc hiện đại hóa của đạo Phật có chủ nghĩa nào tiến bộ hơn phép lục hòa,
tứ nhiếp của đạo Phật chưa?
* * *
Kỷ niệm ngày đản sanh, chúng ta đón nhận luồng tư tưởng giác
ngộ chói rạng tâm hồn. Không nên coi đây là sự xuất hiện của một con người mà
phải chiêm nghiệm sự ban bố của Chân lý. Chân lý giác ngộ ấy không ở ngoài ta.
Đức Phật đản sanh ở trong ta, trong sự đau khổ hiện thực của ta, của những con
người. Đức Phật vì sự đau khổ của con người mà tìm phương giải khổ cho con
người. Ngài không phải là một nhà khoa học vì Ngài không đem cái trí tuệ minh
mẫn của mình để chế ngự thiên nhiên bằng tư tưởng. Ngài không phải là một nhà
khoa học vì Ngài không biện giải những tư tưởng hoài nghi. Xuất thân là một vị
vương giả, đã nghiêng mình xuống, hòa mình với kẻ bần cùng, đau khổ. Giáo lý
Ngài tồn tại trong tim óc người bị áp bức, đày đọa. Xưa nay, giáo lý của Ngài
chưa bao giờ bị bọn thống trị dùng làm khí cụ để khống chế nhân loại. Các vị
tăng lữ, dù hữu hành hay vô hành, đều chỉ có hai đường lối: hoặc là nhập thế độ
sanh, hoặc là ly thế nhập định chứ không hề có một vị nào trở thành một phần tử
của đẳng cấp thống trị. Cho nên, hãy nghĩ rằng Đức Phật đã vì ta mà đản sanh,
Đức Phật đã vì chúng sanh mà thị hiện. Vậy trong cương vị chúng sanh, tưởng
chúng ta chỉ có một nhân sanh quan rất nhân bản là:
Nhận định: Đời
là bể khổ.
Giải pháp:
Tự giác để giác tha.
Ánh sáng Chân lý đã chiếu rọi, ta chỉ cần phát triển cho rực
rỡ lên. Đó cũng là tâm niệm lớn nhất cho con người Việt Nam đang đau khổ vì
chiến tranh và bạo lực./.
(Tạp chí Từ Quang, số 185-186,
tháng 1 & 2 năm 1968)
No comments:
Post a Comment