add this

Monday, August 25, 2025


CÀ PHÊ . CAFÉ . COFFEE
Tôn Thất Tuệ

Trên một Facebook, tôi có đọc một hàng chữ giải thích tấm hình bốn nữ nhân xinh đẹp mặc áo đầm màu hoa cà. "Caffe ở Đà Nẵng". 
Caffe thì ai cũng đủ thông minh để hiểu là thức uống phổ biến cả thế giới. Tuy nhiên tiếng Việt xưa nay có hai cách viết được công nhận. 1. Việt hóa, cà phê 2. dùng tiếng pháp café. Chữ thứ hai coi bộ được dùng nhiều hơn, đến 80%. 
Café còn thêm nghĩa "quán café" (coffee shop). Hình của địa điểm nầy không rõ, chúng tôi dự đoán là Café & Eatery. Tất cả đều là tiếng Anh vì café Anh hóa (englicized) là một quán ăn nặng đủ thứ, trong đó café chỉ là thức uống phụ, có khi không tính tiền, uống hết châm thêm, uống nữa, uống nữa. Quen lối sống Mỹ sẽ ngạc nhiên khi cơ sở kinh doanh nầy dùng đến hai chữ gần như đồng nghĩa.
Ít nhất cho đến thời cận đại, café ở VN là một quán chỉ bán cà phê, quá lắm là thêm vài cái bánh. Không có bít tết, gà rô ti, xúp măng cua.
Chừng 1984, chúng tôi 5 trự vừa mới đến Mỹ, sau tiệc sinh nhật ồn ào, rủ nhau vô một quán "Café" ở Santa Ana để uống cà phê. Trự nào cũng đeo khô mực, trông oai nghiêm so với các thực khách địa phương. Chúng tôi gọi 5 ly cà phê.
Cô hầu bàn chờ mãi, phải lên tiếng hỏi order gì. Chúng tôi nói chỉ một tách cà phê cho mỗi người. Cô đáp: "Quý ông không đùa chứ? Coffee không mất tiền, chỉ là thức uống phụ như nước đá lạnh". Chúng tôi bèn giải thích cứ tưởng quán nầy là coffee shop như ở Saigon, Paris; vừa ăn đầy bụng, cần cà phê cho bao tử khỏi mệt và trò chuyện dài dài. Chúng tôi hứa sẽ trả tiền nhưng cô ấy nói coffee không có mã số (tag) để vô máy (computing) thu tiền. Thôi thì các ông uống "free", lần sau đói bụng xin ghé "quán của em xinh nầy".
Xã hội học gọi đó là hiện tượng "culture shock", khác biệt lối sống.

Với kinh nghiệm nầy, thiết nghĩ vào cái tiệm trong hình mà gọi một tách cà phê thì chủ quán không cự nự, không bị culture shock. Hóa ra cái tên nầy vừa Việt, vừa Pháp vừa Anh Mỹ. Tả pí lù.
Trước 1975, Saigon có hiện tượng "cafeteria" các quán mới hay quán cũ sửa lại. Café Hân êm ả đường Đinh Tiên Hoàng thay cái tên. Cafeteria là một phạn điếm, quán cơm, một căng tin, thường cho công nhân hay học sinh; hoặc là quán tự dịch (self serve) lấy thức ăn bỏ vào khay ra tính tiền trước khi đẩn. Các xưởng bắt đầu mở cafeteria được Bộ Kinh Tế và Bộ Xã Hội trợ cấp. Học không hết sách là vậy; thấy nó vậy liền chụp đem vào người.
Nhiều nơi viết không có dấu sắc khi dùng tiếng Pháp (cafe) nguyên do xưa bắt chước tiếng Pháp viết hoa không dấu: CAFE, REPUBLIQUE. Không dấu là nghề in bằng từng khối chì không thực hiện được, viết trên giấy phải có dấu. Sau khi kỹ thuật mới cho phép, Hàn Lâm Viện Pháp yêu cầu dùng dấu. RÉPUBLIQUE FRANÇAISE.
Chúng tôi xin đề nghị thống nhất hai cách viết: Café hay cà phê.
Ở Đà Nẵng có hiệu Coffee and Book Store. Người chủ đã hiểu chữ café Anh hóa như coffee. Hiệu nầy cần hiệu đính; hoặc coffee and book (bán cà phê và bán sách) hoặc café and book store. Sơ sơ chừng ấy thì đã mệt, huống hồ xem các bài song ngữ thì đến nguyên lý thời đại: muốn biết người Việt nói gì khi họ viết hai thứ tiếng nầy thì phải thông suốt Anh Ngữ và Việt Ngữ. Ngựa phi nước đại là ngựa vừa chạy vừa xả nước (the horse is running and spilling water).

Tiếng Anh đã tràn ngập xứ mình từ hotel năm sao cho đến chỗ xem bói như "see general" (xem tướng), free wife (free wifi). 2014, tôi đến Hà Nội thì thấy bảng hiệu tiếng Anh nhiều hơn các thành phố Mễ chung biên giới HK, khách mua hàng đều là dân Mỹ. 1982, người quen tôi ngoài rẩy kinh tế mới mặc chiếc áo thun có in chữ Georgia thân nhân mới gởi cho. Trên đường về Saigon, anh được mời vào trạm kiểm soát học bài luân lý không nên dùng tiếng ngoại; anh được ngồi một mình suy nghĩ sai quấy, anh đứng dậy bỏ áo mình trần ra về và yêu cầu trạm vui lòng đốt hay vất xuống sình cái áo vô luân lý vô đạo đức ấy. Bỏ của lấy người.
Thế sự thăng trầm quân mạc vấn. Chân lý hôm nay ngày mai là tà ngụy hay ngược lại, ngụy là chân lý ngày kia.



Saturday, August 23, 2025


TẨU MÃ CHẠY DÀI THI VIỆN
Tôn Thất Tuệ

Cách đây sáu năm, tôi mở web Thi Viện và theo chỉ dẫn trên window nầy đã bấm "download" một tài liệu thì computer hư vĩnh viễn và mất tất cả các bài lưu trữ, Office Depot đòi 700 đô để lấy lại, tôi không có tiền, các tài liệu nầy do cọp dê, chứ bản thảo thì đã đưa lên blogspot.

Hai năm sau tôi quên, đã làm lại như vậy, nhưng computer mới chỉ bị ngưng hoạt động với báo hiệu virus đã chiếm nhà, đừng tắt computer để mở lại, mà hãy gọi số 800 của Microsoft Support. Tôi đinh ninh là Microsoft của ông Bill Gates, hơn nữa tôi có mua Word của ông để viết bài, gởi bài. Tôi gọi thì bên kia đầu dây là một người nói tiếng Anh giọng Ấn Độ và có tiếng khóc của trẻ thơ, đòi một số tiền sửa và tiền mua software trị virus hằng năm. Tôi thấy xạo và cúp máy và tắt computer và mở ra thì không có việc gì.

Lại Thi Viện nữa. Hôm qua tra cứu lại cho chắc cấy câu: Kim dạ bất tri hà xứ túc, bình sa vạn lý tuyệt nhân yên. Người đăng bài thơ có câu nầy hỏi hai chữ "Tẩu mã" nếu là con sông thì vô lý vì tác giả đang ở trên sa mạc. Cái máu láu táu của tôi làm tôi bấm ô "trả lời" thì computer bị ngưng như lần trước và đã tắt mở bình thường.

Thi Viện có khá nhiều thơ mới thơ cũ; thơ chữ Hán của Tàu hay của mình đều có chua Hán Tự. Phần giải thích chữ Việt nhiều chỗ đáng ngại. Ví dụ của Miên Thẩm đọc là 'ái nãi ngư nhân khúc' trong lúc phải đọc là ái ái. 'Cao đường minh kính' của Lý Bạch thì dịch thành gương soi của ông bà cha mẹ, tuy nhiên trong ngữ cảnh cao đường là nhà trên, chỗ trịnh trọng mà người Tàu thường chưng một kính thủy lớn đủ soi mái tóc dài.

[Quân bất kiến: Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi!
Hựu bất kiến: Cao đường minh kính bi bạch phát, triêu như thanh ty, mộ thành tuyết.]

Tôi không dám nói người mở Web nầy chủ trương làm tiền và phá hoại. Khi mở home trên FB cá nhân, chúng tôi thường bị bẩy để bị ngưng như trên. Ví dụ bài nói về vụ ám sát TT Kennedy, xin bấm "learn more" và vô số trường hợp như vậy với nhiều đề tài khác nhau.

Tôi hiện dùng thường xuyên hai trang: * VDict, tự vị song ngữ và chính tả Việt và * Hán Việt tinh học hóa (digitalized) tự vị Thiều Chửu. Nhưng mở ra thì có lưu ý không an toàn (not safe) hoặc không dùng được; muốn dùng phải tắt tường lửa (turn off fire wall). Một người chuyên sửa computer khuyên tôi không nên mở các web của người Việt để tránh virus, ngoại trừ UniKey đánh chữ Việt.

Không biết về lâu về dài các vụ ngưng nầy có ảnh hưởng hay không, chứ hiện tại chỉ mất thì giờ.

Phụ bản


西

宿



Thích Trung Tác

Tẩu mã tây lai dục đáo thiên,
Từ gia kiến nguyệt lưỡng hồi viên.
Kim dạ bất tri hà xứ túc,
Bình sa vạn lý tuyệt nhân yên.

[Ruổi ngựa lên hướng tây, muốn tận trời, / Xa nhà đã thấy trăng hai lần tròn. / Đêm nay không biết ngủ đỗ nơi nào, / Cát bằng vạn dặm, nào thấy tơ hào khói chiều ai thổi cơm]

Phần Việt ngữ là ý chung của nhiều người, là giải thích hiện nay bài thơ của Sầm Thương viết năm 749. Nhưng hầu như để tránh né, ít ai dịch đầu đề. Thích Trung Tác tạm dịch là Bài sáng tác giữa sa mạc. Thích là đụn cát hay các khối đá giữa sông khi khô nước ở vùng sa mạc; cũng có nghĩa là sa mạc nghĩa rộng.

Thích bao hàm dòng sông cho nên qua nhiều thế kỷ "Tẩu Mã" được giải thích là tên của một con sông. Có người nại rằng tác giả Sầm Thương ở một nơi khác nói rõ tên dòng sông Tẩu Mã. Dòng sông Tẩu Mã cũng có lý chứ, dòng sông không mâu thuẩn với sa mạc. Bao nhiều dòng sông không có nước như sông Santa Ana. Có thể một trăm năm, hai trăm năm hay tuần tới nước sẽ lũ ngập. Con sông nay là sa mạc cát chạy lên tận trời hướng tây, bình sa vạn lý.

Tẩu mã được dịch là dục ngựa, phi ngựa vì chữ Tàu và cả chữ Việt không cần chủ từ như văn phạm Pháp đòi hỏi. Ý nầy móc nói với câu hai "từ gia" nhưng xa nhà không nhất thiết phải đi bằng ngựa.

Ý chính của bài văn nói nhẹ nhàng không cộc lốc là cô đơn, lòng nhớ đến bếp lửa quê nhà mà tiếng Pháp foyer có nghĩa là lò sưởi và mái ấm gia đình. Một chút khói xa cho thấy một cảnh nhà êm ấm ví như thấy sừng trâu là chắc có con trâu mẹp trong nươớc bùn. Lữ khách bơ vơ, quá nhỏ nhoi, cát bằng vạn dặm như muốn chạy đế tận trời, nhìn quanh chẳng thấy khói nhà ai thổi cơm chiều và ta sẽ ngủ đỗ chỗ nào, e chẳng có một mái hiên nhà tranh xiêu vẹo. 
Trước và sau bài nầy (viết năm 749), cổ thi của Tàu và của người Việt rất hào hùng (không phải là anh dũng chiến trường) mà nội lực thâm hậu, đau đớn cũng rất hào hùng. Một mình Sầm Thương trên sa mạc xế chiếu, không khác "Cò lẻ ráng chiều chung cánh bay" (Lạc hà dữ cô lộ tề phi, Vương Bột). Nhiều dịch giả đã không thấy, không lột hết nét hào hùng nầy đã làm mất giá trị của nguyên bản. Cũng vậy, nhiều cao nhân tự xưng là thi sĩ chuyên Đường Thi, đã bằng bằng trắc trắc ghép chữ làm ra vô số bài thơ đường gọi là sugar poem, ngon như đường cát mát như đường phèn.
Thiện tai. Kính bái Đức Cồ Đàm. Saluto Gautama.

=========================================






Monday, August 18, 2025

Hương Mộc Lan tranh sơn dầu

Hương Mộc Lan, tranh sơn dầu Linh Hoàng Hà Nội 2025

HƯƠNG MỘC LAN XA VẮNG
Quyến luyến của người xem là nét xa xăm của thiếu nữ trong tranh Hương Môc Lan. Cảm thức nầy xoắn quyện như nước xoáy vì nhiều nét tròn: khuôn mặt, mộc lan nở, cái bình, cái bàn, lưng ghế mây, sống lưng dựa ghế trường kỷ; thanh gỗ cong nơi bức đố thưa như một chu vi ngoại thành mà khuôn mặt là nội cung, giữ cho được thành trì nội tâm.
Màu xanh là màu bất trị, khó trị nhất trong hội họa, thời trang và kiến trúc. Mấy người tôi quen trong ba ngành nầy tránh xa cái màu yêu quý ấy. Nhưng trong tranh nầy họa sĩ đã trị được con ngựa chứng để cho chúng ta chiếc áo xanh vương giả quý phái. Nếu màu xanh rất trai lơ trong lối ăn mặc nếu không biết cách thì màu xanh rất tôn nghiêm nơi miếu đình trong y phục tế lễ. Chiếc áo của nàng thụng thệnh như áo của mẹ xưa, chưa bo sít vào eo. Người đẹp và cành mộc lan là một lưỡng thể như tâm và ảnh, là một bình thông nhau, nước vào cửa nầy chảy qua cửa kia. Đi từ mộc lan để đến với thiếu nữ, hay đi từ thiếu nữ để đến với hoa.
Về thời trang bạn có thể bắt bẻ quần hồng quá, quá tân thời. Thế nhưng xin rộng rãi với tay họa, màu trắng hay màu đen bỏ vào đây thì phá hết hòa tấu khúc màu sắc. Màu đỏ thẩm và màu đà chung quanh tăng trọng lượng của tranh, cho nặng thêm nếu không thì hoa và nàng bay lên không, như bướm bay.
Bên dưới tôi đã reply tiếp tay một huynh trưởng về bàn tay không thuần nhuyễn như toàn thể bức tranh, bàn tay trông có phần bất thường, không tương xứng trong lối vẽ chân phương (không lập thể hay siêu thực). Bàn tay rõ ràng năm ngón làm tôi nghĩ đến các bức ảnh truyền thống, chân dung để thờ, nhất là các bà đều trưng hai bàn tay năm ngón thường để trên hai đầu gối; chứng tỏ người trong hình hạnh phúc sinh ra đầy đủ mười ngón tay không thừa không thiếu. Phải chăng họa sĩ muốn dùng quy ước nầy để nói sự toàn diện viên mãn của ngoại cảnh và nội tâm.
Thiếu nữ trong tranh là một bài thơ, đừng quên họa sĩ muốn vẽ hương mộc lan, hương thoảng trong gió và trong lòng nàng. Nàng ngồi đây nhưng muốn theo hương mộc lan gởi về một nơi xa xăm, xa trong không gian và xa trong thời gian.

XA VẮNG
Tôn Thất Tuệ
Ôi xa vắng, em đã ra ngoài trí tưởng
để yêu thương chỉ đến với yêu thương.
Ôi xa vắng một nhận chân hiện thực
tiếng nồng thơm khuấy động thời kinh sáng
đấng linh thiêng xin tha tội kẻ quy hàng
những ma lực vấn quanh miền nhung nhớ
vùi sâu thêm trong cõi quạnh cuối nguồn.
*
Nhưng linh hiển mến thương là chân lý
kinh buổi chiều xin niệm tiếng tình yêu
nơi xa vắng nơi chân mây vĩnh viễn
để em nghe một lời thơ từ đáy vực:
nguyện cho em áo thắm đời hoa
nguyện cho em áo thắm đời hoa.-


Thursday, August 14, 2025



KHỔNG GIÁO BÌNH DÂN và CHÍ THIỆN
Lê Minh Khai 2013 TTT dịch

Bình dân mà khó hiểu. Thế mới lạ, thế mới khổ.
Từ thế kỷ 19, Nhật Bản bắt đầu tìm hiểu các xã hội Tây phương, đã nhận thấy rằng Tây phương tổ chức sự hiểu biết về thế giới khác với cách tổ chức của Nhật và Á Châu. Tây phương đã phạm trù hóa kiến thức thành các khối, như triết học, tôn giáo, văn chương và lịch sử, là những thứ không có tương đồng trong các xã hội Á Châu. Nói vậy không có nghĩa Á Châu không có triết học, tôn giáo. Trái lại, các tín điều, các cách trì hành không được quán niệm và kết tập như ở trời Tây, những danh tự như philosophy, religion không có ở Á Châu.
Mãi cho đến cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, giới trí thức Nhật mới viết xong các tác phẩm chưa từng có như "lịch sử Phật Giáo", "lịch sử tư tưởng Trung Hoa". Tiếp đến, học giả Tàu và Việt Nam mới làm theo.
Cuối thế kỷ 19 Matsumoto Bunzaburō xuất bản 支那哲學史  Chi Na Triết Học Sử. Tiếp theo Tạ Vô Lượng 
谢无量 ấn hành  中國哲學史 Trung Quốc Triết Học Sử năm 1916; ba năm sau Hồ Thích viết xong 中國哲學史大綱 Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương in 1919, mãi cho đến 1934, Phùng Hữu Lan dùng tên cũ Trung Hoa Triết Học Sử của Tạ Vô Lượng cho cuốn sách của ông cùng thể loại. Về phần VN, Trần Trọng Kim năm 1930 hoàn tất 儒教 Nho Giáo. 
Những công trình nầy có ba đặc điểm nếu không muốn nói nhược điểm.
- Tây phương hóa, hình thành như kiểu người Tây Phương viết về học thuật của chính họ.
- Một số tư tưởng Khổng Mạnh đã được liệt kê vào mục triết học, tuy thuộc về tôn giáo.
- Viết cho giới trí thức thượng lưu, về tri lẫn hành.
Nay đến lược các học giả Tây Phương bằng vào những tác phẩm đã Tây phương hóa để nghiên cứu Đông Phương. Kết quả Khổng Giáo (KG) dưới mắt Tây Phương chỉ là tam cương ngũ thường và xa hơn một chút là nhân 仁  và nghĩa 義. . ..
Hiện tượng văn học nầy giống như trường hợp thực phẩm quốc túy đem ra xứ khác đã thay đổi cho hợp thị hiếu địa phương mới. Ví dụ sushi của Nhật ở xứ người có thêm mayonnaise và cream cheese, dẫu rằng God và người Nhật thuần túy không muốn thấy hai thứ gia vị phụ nầy quệt vào mấy cuốn cơm và cá sống của xứ Phù Tang. Đấy là một sự nhiễu loạn, bóp méo thực tế lịch sử.

sushi

Khổng Giáo đến với Tây Phương như sushi ở New York City. Cứ theo những tác phẩm nầy, độc giả không thể tìm thấy KG như chính nó xuất hiện trong quá khứ, vì thực tế lịch sử đã bị thay đổi, nhiễu loạn.
KG bao trùm một hệ thống, một mạng lưới to lớn gồm lý thuyết và lề lối trì hành bởi những người tin vào quyền năng gọi là Trời và tin rằng các sách của Cửa Khổng là mẫu mực và qui tắc của trật tự xã hội và lối sống chung.
Những người mang những tin tưởng nói trên cầm giữ uy quyền chính trị trong các xã hội Á Châu, họ tạo ra cách thức tổ chức và điều hành chính quyền, không trái với sự tin tưởng vào quyền uy của Trời và túi khôn trong kinh sách KG.

Thế rồi Phật Giáo được du nhập vào Đông Á, lúc đầu đụng chạm thách thức vũ trụ quan KG, ví như PG không nhấn mạnh đến chữ hiếu ăn sâu vào xã hội không thể lay chuyển; PG tùy tiện lấy chữ hiếu đem vào hệ thống giá trị của mình để thuyết giảng giáo lý mới.
Mặt khác, quan niệm của PG về nghiệp (nhân quả) là một lý thuyết vô cùng mạnh mẽ mà các học giả KG phải thừa nhận và đem vào hệ thống tư tưởng cổ điển của Nho gia.
Một câu trong Kinh Dịch 易經 được bình giải để chứng minh KG đã từng chủ trương thuyết duyên khởi và nghiệp quả.

積善之家,必有餘慶,積不善之家,必有餘殃。
tích thiện chi gia tất hữu dư khánh; tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương. [Gia đình nào tích lũy nhiều điều lành sẽ được tôn vinh hạnh phúc; gia đình nào làm điều không tốt sẽ đầy rẫy tai ương].
Chữ căn bản ở đây là thiện 善. Chữ nầy chứng minh tính chất nghiệp quả trong tư tưởng KG tương đồng với nghiệp quả của PG và được dùng để cho mọi người điều hành việc nhà việc nước theo những qui chuẩn luân lý của KG.
Các Nho gia đã viết nhiều xã luận về sự dung hợp hai hệ thống tư tưởng; đó là những “thiện thư” 善書, không hẵn là những bài luân lý như tây phương đã hiểu và dịch thành morality book tuy phải dịch là goodness book mới đúng.
Khi viết các sách theo lối mới về KG, các ông Bunzaburō, Tạ Vô Lượng, Hồ Thích, Phùng Hữu Lan và Trần Trọng Kim không nói về thiện hay thiện thư vì đấy là KG của người bình dân. Các học giả nầy viết cho giới ưu việt, và nói nhiều về nhân 仁 và nghĩa 義.
Nếu bạn dùng các tài liệu lịch sử để tìm hiểu nhân và nghĩa, bạn có thể tìm gặp nơi nầy nơi kia nhưng nội dung khác với nội dung được trình bày trong các ấn bản tân thời và Âu hóa, những thứ nầy gọi là KG thêm mayonnaise và cream cheese.
Nếu bạn đi tìm cái thiện thì bạn không thể đạt ý muốn xuyên qua các tác phẩm ưu việt nầy. Trái lại, bạn sẽ mãn nguyện với rất nhiều ví dụ, khi dùng các văn biểu viết cho giới bình dân, hay viết về thế giới bình dân.

Tác giả vừa gặp một lời ghi trên bia đá (bi ký) khắc chừng năm 1582 gọi là Tín thí Pháp Vân tự bi 信施法雲寺碑. (Bia cúng chùa Pháp Vân). Bia viết bởi Nguyễn Đức Thông 阮德聰, tạm xem là một thầy ký của một viên chức chánh quyền (Trung thư giam hoa văn học sinh 中書監華文學生).
Mục đích của bi ký nầy là ghi nhận việc cúng đất và tiền cho chùa Pháp Vân của bà Nguyễn Thị Lũy 阮氏壘.

Bia ghi như sau:

夫福善者,乃天至公之道,好善者,斯人秉彝之性,人能行善,則天心以福報應,理之自然,無毫髮爽,故經云積善之家,必有餘慶,良有以也。
phu phúc thiện giả nãi thiên chí công chi đạo, hảo thiện giả, tư nhân bỉnh di chi tính, nhân năng hành thiện, tắc thiên tâm dĩ phúc báo ứng, lý chi tự nhiên, vô hào phát sảng, cố kinh vân tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh, lương hữu dĩ dã.
[Tâm lành làm ra các điều thiện là luật hết sức công bằng của Trời. Thích ý thiện là đặc tính của những người tuân thủ các tiêu chuẩn luân lý. Cho những ai có thể làm việc tốt, Trời sẽ thưởng bằng phước, như một chuyện tự nhiên, không sai trái chút nào. Kinh Dịch có nói: Gia đình tích lũy nhiều điều thiện sẽ được tôn vinh hạnh phúc. Thế thì đúng ngay vào trường hợp nầy.

今順安府嘉林縣朱橋社阮氏壘號慈在,斅善心,損家美財田土信施與法雲寺佛,其所以做善緣培福基,種福根浚福源,至深至廣,諒知其天道感應福善之報,悠久延長,曷有窮也。
kim Thuận An phủ, Gia Lâm huyện, Chu Kiều xã Nguyễn Thị Lũy hào từ tại thiện tâm, tổn gia mỹ tài điền thổ tín thi dữ Pháp Vân Tự Phật, kỳ sở dĩ tố thiện duyên bồi phúc cơ, chủng phúc căn tuấn phúc nguyên, chí thâm chí quảng, lượng tri kỳ thiên đạo cảm ứng phúc thiện chi báo, du cửu diên trường, hạt hữu cùng dã。
[Nguyễn Thị Lũy hiện ở xã Chu Kiều, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An có lòng tốt đã dùng một phần gia sản và ruộng đất cúng dường chùa Pháp Vân để tỏ lòng thành. Bà đã tạo nên duyên lành, phát triển nền móng phúc lợi, bà đã trồng cội phúc, đào sâu thêm mở rộng thêm suối nguồn ân phước. Với những điều nầy, ai ai cũng thấy Trời sẽ cảm ứng và sẽ thưởng những điều lành điều thiện mãi mãi không ngưng].
Vậy thì đây rất chi là Khổng Giáo, nhấn mạnh quyền uy của Trời và căn bản lý thuyết là Kinh Dịch. Bi ký nầy không nhắc đến những điều đầy rẫy trong các sách mới, cũng không nói đến nhân nghĩa. Nơi đây chỉ có thiện là gốc, để sinh ra phúc nhờ cảm ứng của Trời; Trời thấy và thưởng.
Những quan niệm căn bản nòng cốt của KG vừa nêu đã lan truyền nơi nơi, đã tạo nên điều gọi là nền văn hóa bình dân Đông Á.
Cái thiện trong KG được nói tới một cách rộng rãi khi bàn luận về nghiệp quả của PG. Toàn văn bi ký nói trên chỉ dùng một thuật ngữ PG là thiện duyên 
善緣 nhưng nó cũng gồm chữ thiện của KG. Chỉ một tấm bia nầy đã mang đủ hai nền tản triết lý Khổng và Thích, và hai quan niệm nầy không thể tách rời nhau. Một bi ký đầy tính chất Khổng Giáo, đặt trong một ngôi chùa thờ Phật. Sự kiện vật thể và tinh thần bi ký cho thấy sự dung hợp rộng rãi và tinh thần bao dung của Đông Á.
Tấm bia đá nầy nói lên đầy đủ tầm quan trọng của "thiện". Nhưng thiện không được đề cập trong các tác phẩm tân thời; hơn thế nữa, những tác phẩm nầy tạo nên các trở lực cho việc tìm hiểu nền văn hóa bình dân, như làm thiên hạ không thể hiểu tấm bia nầy.

It nhất cho đến thời kỳ tiền tân thời giao tiếp với Tây Phương, VN là một nước Khổng Giáo. Học giả VN cần biết về thiện, chứ không phải cái gọi là triết lý của một Khổng Giáo mayonnaise và cream cheese. Thiện đã ăn sâu vào xã hội VN cho dù bao biến đổi thời thế.

https://leminhkhai.wordpress.com/2023/12/06/popular-confucianism-culture-in-premodern-vietnam/


Saturday, August 9, 2025



CHỢ ĐÔNG BA XƯA 

THƯƠNG NHỚ BIẾT MẤY CHO VỪA

Tôn Thất Tuệ

Chùa qua chùa về trên internet có bức hình đen trắng chụp một góc của chợ Đông Ba nhưng là một toàn cảnh gồm cả Ngự Bình và Kim Phụng, bức hình của một nhà nhiếp ảnh ở Đà Nẵng và xuất hiện trên một web bán ảnh cũ khắp nơi trên thế giới, với thời gian không chính xác là thập niên 1950.

Tuy ở Huế, chúng tôi không biết lúc nào bến xe cũ đã chỉnh trang thành bến xe rộng rãi như trong hình. Tôi chỉ nhớ sau 1954, nhiều nhà phố hai đường chính Trần Hưng Đạo và Phan Bội Châu (Gia Long) đã lên lầu như nhà sách Gia Long mới, hay nhà thuốc tây cạnh Ty Thông Tin.
Tiền thân của bến xe khang trang nầy là vùng đất thấp dưới chân cầu Gia Hội ngay ở ngã ba sông; dân chúng chưa chiếm hết mà chỉ ở quanh sông với nhà tranh, nhà tôn, ở đấy có bến đò từ Đập Đá qua. Dân chúng đi bộ từ bên Gia Hội qua hết cầu thì xuống một bực cấp khá cao và rất dài, để vô chợ, xuống đò Đập Đá hay đi xe buýt.
Xe buýt Renault xanh xuất hiện lần đầu tiên cuối 1949 với ba xe chính số 1 An Cựu, số 2 Bao Vinh số 3 Bến Ngự và gia tăng rất nhanh với số lẻ Hữu Ngạn số chẵn Tả Ngạn.
Bến xe nằm ở chỗ thuận tiện vào thời xưa đi bộ hay thuyền xuồng nhưng xe vô ra rất khó. Đi vào chỉ là một con đường nhỏ rẻ từ Trần Hưng Đạo và đi ra bằng một con đường nhỏ chen giữa các nhà tranh chiếm đất, tiếp tục đi sau chợ rồi đến cầu Trường Tiền, chạy ra Trần Hưng Đạo quanh co mấy nhịp. Giữa tam giác đất rất nhỏ tạo nên bởi hẻm đi vào, Trần Hưng Đạo và hông bậc cấp có cà phê Phấn và trạm biến điện. Cả khối nầy đã được giải tỏa, mở đường cho xe buýt vô ra không cần chạy sau chợ nữa. Phía ngoài chúng ta có một ngã năm, tạo nên bởi Phan Bội Châu, đường bến xe, hai đường Trần Hưng Dạo và cầu Gia Hội. Không có bùng binh cột đèn, chỉ thấy cảnh sát đứng
trên bục sắt điều khiển lưu thông.

bến xe đầu tiên
Như vậy nếu đúng trong thập niên 1950 thì việc cải biến e chừng 1958.
Hình cho thấy vài ki ốt mới, làm cho nhiều người hỏi vì sao không thấy bản hiệu Lạc Sơn. Lạc Sơn nhìn ra Trần Hưng Đạo. Tôi nghĩ kiến trúc nhỏ nầy hình thành khi cải thiện bến xe, vì lúc đầu bước xuống xe là vô ngay đình. Có thể kể cả ngôi nhà mái đen bên phải tấm hình; dãy nầy có trạm cảnh sát Phú gì đó, Phú Cát? và cà phê Phấn dọn vô. 

Từ bức ảnh, tôi xin sơ phát ký ức về ngôi chợ muôn thuở trong tâm hồn nay đã biến dạng. Nói về thập niên 1950.
Giữa bốn dãy nhà lồng (nói theo trong Nam) hay là đình xếp thành một hình vuông, chỉ có tháp đồng hồ mang hình thái kiến trúc cùng với đình. Phần còn lại như một khu nhà lụp xụp, lô nhô nóc nhà. Đó là những quày bán hàng, là những ki ốt di chuyển được, không có cột chôn xuống đất; chỉ là những cái sạp bằng gỗ. Lòng chính giữa bốn chân gỗ là một hình vuông 5m x 5m nhưng mở cửa bày hàng làm cho không gian chiếm ngụ có 10m một bề.
Mấy chục hay cả trăm nóc gia nầy bán những thứ không có trong bốn đình, và là khu vui nhộn, người chen người, không thư thả như trong đình, vừa rộng vừa cao.
Đại để, đình bên phải ngay sau bến xe là đình gạo và đình đường. Ôi cái đình nó ngọt làm sao mà các cô bán đường thì đẹp làm sao, áo dài đài cát không khác gì mấy cô đi học. Đường đủ thứ, đường cát, đường muối, đường bánh, đường phèn, đường phổi. Dân chuyên nghiệp nghễ, tay sành điệu (connaisseur), hãy vào đấy mà nhìn, lắm lúc được bố thí một nụ cười, không bị nguýt như dao sắc; một Lan không còn thấy trên đường Phan Bội Châu vào giờ đi học có thể thay mẹ bán đường hay bán nón.
Nếu bán nón thì đình bên trái đối diện là đình hàng nón. Vâng, hàng nón thơm mùi dầu rái ngây say không xáo trộn như Eau de Cologne. Hàng nón nầy thu hút nam sinh nhiều hơn nữ sinh, người nghễ thì nhiều, người mua thì ít. Học sinh nghèo làm gì có tiền mua cái nón tặng nường. Mà nón hả? cả cây nón, gồm hơn trăm cái nón. Mấy cô tom góp nón các nhà chằm đem tới, đóng thành cây nón chở đi Saigon. Noái Saigon không đội nón là sai.
Trở về đình gạo, có những sạp gạo như sạp đường và những người gánh đôi thúng, ngồi dưới đất. Mùi vị hàng đường chỉ thuộc tâm lý nhiều hơn. Nhưng mùi hương của hàng gạo là mùi cám thật, nặng hơn mùi hương lúa ngoài đồng. Không thấy bán gạo tạ, muốn mua gạo tạ thì ra Hàng Bè như tiệm Nam Lai hay tiệm của thầy Phiên. Những thúng gạo được vun thành hình tháp, và khi các bàn tay vun lên thì hương của cám tỏa ra. Vẫn còn thấy những ống gạt bằng tre bóng lưỡng, những cái ô đã nhẵn vì tay cầm. Các bà bán gạo thường lớn tuổi hơn các cô bán đường, những thiếu phụ trông đảm đương; không đường có thể sống nhưng không gạo chỉ có chết thôi.
Cái đình phía sau gần sông là đình cá và đình thịt. Đình còn lại phía trước bán hàng xén, vật dụng như chén bát, đèn đuốc, kim chỉ v.v...
Ở giữa chợ là một cái miễu, chỗ thờ, nằm dưới tháp đồng hồ. Quanh miễu là hàng thợ mã, treo những con nộm áo quần màu mè, quần đỏ, quần xanh; áo vàng, áo tím, áo kép xanh đỏ tím vàng, quần đôi hai màu, báo trước thời trang cho mấy chục năm sau. Huế bây giờ còn nhiều sắc áo sắc quần nhiều màu hơn mấy con nộm nan nầy.
Những nóc gia lụp xụp trong hình bán những thứ không có trong các đình. Tôi biết chắc là hàng bông, rau cải. Người bà con của tôi có sạp rau ngay chỗ tiếp giáp của đình đường và đình cá. Ngày chợ Tết, tôi có đến phụ bán hàng. Khác với chợ Bến Thành Saigon, khu nội địa nầy không có hàng ăn. Muốn ăn xin bước ra Lạc Sơn, ngồi ghế sẽ có người bưng tận nơi, nào là cơm hến, nào là bún bò, nem lụi, nem nướng ...
Cái biết và nhớ của tôi e chưa được 5% của cái chợ. Một phần vì nhỏ quá, một phần tôi sống xa nhà không có dịp theo người lớn vô chợ. Tôi tự hỏi không biết có chỗ bán vải không, bán áo quần không? Tôi chưa đi ngang qua đình cá thịt. Những thứ trong các đình, không biết là cái gì, làm gì. Nhưng biết đường ngọt, gạo ăn và thấy thiên hạ đội nón.

Tuy là chợ, Đông Ba thời xưa vẫn theo một nhịp sống thư thả; đi vào chợ còn thấy thiên nhiên, còn thấy bóng người, còn nghe tiếng nói; không lạnh lùng như dạo các mall bên Âu Mỹ.
Trai khôn tìm vợ chợ đông! Tôi chọn cô hàng đường, ngọt lên cay trái như đóa hoa đời, làm cho ong bay, làm cho ong say. Đông Ba xưa của tôi ơi, thương nhớ biết mấy cho vừa, chợ ơi!


Wednesday, August 6, 2025

 


TRƯỚC TRÒN SAU CŨNG TRÒN

Tôn Thất Tuệ

◙ Đây là bức tranh với tên Ngự Bình của Tôn Thất Đào, không biết năm sáng tác. TT Đào thì ai cũng biết là giáo sư hội họa, từng có bằng khen ở La Mã, Ý, đã từng là giám đốc trường Mỹ Thuật Huế, khi mới thành lập đặt tại Bến Ngự.
◙ Xin để chư vị bình luận. Chúng tôi chỉ thấy một ý tưởng rất tân kỳ, nó mang triết lý con người và ngoại cảnh không tách rời. Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Gia tài chỉ có tranh và một bình hoa thì đem đổ ra cho thế gian, ai lượm được gì thì lượm. Giống như kinh Phật là một suối nguồn bất tận nhưng chúng sinh tùy sức mà múc mà gánh; mưa xuống cây to cây nhỏ đều hưởng lộc của trời, bình đẳng đừng chê nhau ít nhiều.
◙ Ca dao Huế ai cũng thuộc lòng: Ngự Bình trước tròn sau méo. Nhưng nữ nhân mang cả khối không gian to lớn nầy thì trước của nàng tròn đã dành mà sau cũng tròn, sau không méo. Sau mà méo thì mần ăn cấy nỗi chi?! Mô Phật, đừng lật đật mà trật ra ngoài.---