add this

Saturday, August 9, 2025



CHỢ ĐÔNG BA XƯA 

THƯƠNG NHỚ BIẾT MẤY CHO VỪA

Tôn Thất Tuệ

Chùa qua chùa về trên internet có bức hình đen trắng chụp một góc của chợ Đông Ba nhưng là một toàn cảnh gồm cả Ngự Bình và Kim Phụng, bức hình của một nhà nhiếp ảnh ở Đà Nẵng và xuất hiện trên một web bán ảnh cũ khắp nơi trên thế giới, với thời gian không chính xác là thập niên 1950.

Tuy ở Huế, chúng tôi không biết lúc nào bến xe cũ đã chỉnh trang thành bến xe rộng rãi như trong hình. Tôi chỉ nhớ sau 1954, nhiều nhà phố hai đường chính Trần Hưng Đạo và Phan Bội Châu (Gia Long) đã lên lầu như nhà sách Gia Long mới, hay nhà thuốc tây cạnh Ty Thông Tin.
Tiền thân của bến xe khang trang nầy là vùng đất thấp dưới chân cầu Gia Hội ngay ở ngã ba sông; dân chúng chưa chiếm hết mà chỉ ở quanh sông với nhà tranh, nhà tôn, ở đấy có bến đò từ Đập Đá qua. Dân chúng đi bộ từ bên Gia Hội qua hết cầu thì xuống một bực cấp khá cao và rất dài, để vô chợ, xuống đò Đập Đá hay đi xe buýt.
Xe buýt Renault xanh xuất hiện lần đầu tiên cuối 1949 với ba xe chính số 1 An Cựu, số 2 Bao Vinh số 3 Bến Ngự và gia tăng rất nhanh với số lẻ Hữu Ngạn số chẵn Tả Ngạn.
Bến xe nằm ở chỗ thuận tiện vào thời xưa đi bộ hay thuyền xuồng nhưng xe vô ra rất khó. Đi vào chỉ là một con đường nhỏ rẻ từ Trần Hưng Đạo và đi ra bằng một con đường nhỏ chen giữa các nhà tranh chiếm đất, tiếp tục đi sau chợ rồi đến cầu Trường Tiền, chạy ra Trần Hưng Đạo quanh co mấy nhịp. Giữa tam giác đất rất nhỏ tạo nên bởi hẻm đi vào, Trần Hưng Đạo và hông bậc cấp có cà phê Phấn và trạm biến điện. Cả khối nầy đã được giải tỏa, mở đường cho xe buýt vô ra không cần chạy sau chợ nữa. Phía ngoài chúng ta có một ngã năm, tạo nên bởi Phan Bội Châu, đường bến xe, hai đường Trần Hưng Dạo và cầu Gia Hội. Không có bùng binh cột đèn, chỉ thấy cảnh sát đứng
trên bục sắt điều khiển lưu thông.

bến xe đầu tiên
Như vậy nếu đúng trong thập niên 1950 thì việc cải biến e chừng 1958.
Hình cho thấy vài ki ốt mới, làm cho nhiều người hỏi vì sao không thấy bản hiệu Lạc Sơn. Lạc Sơn nhìn ra Trần Hưng Đạo. Tôi nghĩ kiến trúc nhỏ nầy hình thành khi cải thiện bến xe, vì lúc đầu bước xuống xe là vô ngay đình. Có thể kể cả ngôi nhà mái đen bên phải tấm hình; dãy nầy có trạm cảnh sát Phú gì đó, Phú Cát? và cà phê Phấn dọn vô. 

Từ bức ảnh, tôi xin sơ phát ký ức về ngôi chợ muôn thuở trong tâm hồn nay đã biến dạng. Nói về thập niên 1950.
Giữa bốn dãy nhà lồng (nói theo trong Nam) hay là đình xếp thành một hình vuông, chỉ có tháp đồng hồ mang hình thái kiến trúc cùng với đình. Phần còn lại như một khu nhà lụp xụp, lô nhô nóc nhà. Đó là những quày bán hàng, là những ki ốt di chuyển được, không có cột chôn xuống đất; chỉ là những cái sạp bằng gỗ. Lòng chính giữa bốn chân gỗ là một hình vuông 5m x 5m nhưng mở cửa bày hàng làm cho không gian chiếm ngụ có 10m một bề.
Mấy chục hay cả trăm nóc gia nầy bán những thứ không có trong bốn đình, và là khu vui nhộn, người chen người, không thư thả như trong đình, vừa rộng vừa cao.
Đại để, đình bên phải ngay sau bến xe là đình gạo và đình đường. Ôi cái đình nó ngọt làm sao mà các cô bán đường thì đẹp làm sao, áo dài đài cát không khác gì mấy cô đi học. Đường đủ thứ, đường cát, đường muối, đường bánh, đường phèn, đường phổi. Dân chuyên nghiệp nghễ, tay sành điệu (connaisseur), hãy vào đấy mà nhìn, lắm lúc được bố thí một nụ cười, không bị nguýt như dao sắc; một Lan không còn thấy trên đường Phan Bội Châu vào giờ đi học có thể thay mẹ bán đường hay bán nón.
Nếu bán nón thì đình bên trái đối diện là đình hàng nón. Vâng, hàng nón thơm mùi dầu rái ngây say không xáo trộn như Eau de Cologne. Hàng nón nầy thu hút nam sinh nhiều hơn nữ sinh, người nghễ thì nhiều, người mua thì ít. Học sinh nghèo làm gì có tiền mua cái nón tặng nường. Mà nón hả? cả cây nón, gồm hơn trăm cái nón. Mấy cô tom góp nón các nhà chằm đem tới, đóng thành cây nón chở đi Saigon. Noái Saigon không đội nón là sai.
Trở về đình gạo, có những sạp gạo như sạp đường và những người gánh đôi thúng, ngồi dưới đất. Mùi vị hàng đường chỉ thuộc tâm lý nhiều hơn. Nhưng mùi hương của hàng gạo là mùi cám thật, nặng hơn mùi hương lúa ngoài đồng. Không thấy bán gạo tạ, muốn mua gạo tạ thì ra Hàng Bè như tiệm Nam Lai hay tiệm của thầy Phiên. Những thúng gạo được vun thành hình tháp, và khi các bàn tay vun lên thì hương của cám tỏa ra. Vẫn còn thấy những ống gạt bằng tre bóng lưỡng, những cái ô đã nhẵn vì tay cầm. Các bà bán gạo thường lớn tuổi hơn các cô bán đường, những thiếu phụ trông đảm đương; không đường có thể sống nhưng không gạo chỉ có chết thôi.
Cái đình phía sau gần sông là đình cá và đình thịt. Đình còn lại phía trước bán hàng xén, vật dụng như chén bát, đèn đuốc, kim chỉ v.v...
Ở giữa chợ là một cái miễu, chỗ thờ, nằm dưới tháp đồng hồ. Quanh miễu là hàng thợ mã, treo những con nộm áo quần màu mè, quần đỏ, quần xanh; áo vàng, áo tím, áo kép xanh đỏ tím vàng, quần đôi hai màu, báo trước thời trang cho mấy chục năm sau. Huế bây giờ còn nhiều sắc áo sắc quần nhiều màu hơn mấy con nộm nan nầy.
Những nóc gia lụp xụp trong hình bán những thứ không có trong các đình. Tôi biết chắc là hàng bông, rau cải. Người bà con của tôi có sạp rau ngay chỗ tiếp giáp của đình đường và đình cá. Ngày chợ Tết, tôi có đến phụ bán hàng. Khác với chợ Bến Thành Saigon, khu nội địa nầy không có hàng ăn. Muốn ăn xin bước ra Lạc Sơn, ngồi ghế sẽ có người bưng tận nơi, nào là cơm hến, nào là bún bò, nem lụi, nem nướng ...
Cái biết và nhớ của tôi e chưa được 5% của cái chợ. Một phần vì nhỏ quá, một phần tôi sống xa nhà không có dịp theo người lớn vô chợ. Tôi tự hỏi không biết có chỗ bán vải không, bán áo quần không? Tôi chưa đi ngang qua đình cá thịt. Những thứ trong các đình, không biết là cái gì, làm gì. Nhưng biết đường ngọt, gạo ăn và thấy thiên hạ đội nón.

Tuy là chợ, Đông Ba thời xưa vẫn theo một nhịp sống thư thả; đi vào chợ còn thấy thiên nhiên, còn thấy bóng người, còn nghe tiếng nói; không lạnh lùng như dạo các mall bên Âu Mỹ.
Trai khôn tìm vợ chợ đông! Tôi chọn cô hàng đường, ngọt lên cay trái như đóa hoa đời, làm cho ong bay, làm cho ong say. Đông Ba xưa của tôi ơi, thương nhớ biết mấy cho vừa, chợ ơi!


No comments:

Post a Comment