CÀ PHÊ . CAFÉ . COFFEE
Tôn Thất Tuệ
Trên một Facebook, tôi có đọc một hàng chữ giải thích tấm hình bốn nữ nhân xinh đẹp mặc áo đầm màu hoa cà. "Caffe ở Đà Nẵng".
Caffe thì ai cũng đủ thông minh để hiểu là thức uống phổ biến cả thế giới. Tuy nhiên tiếng Việt xưa nay có hai cách viết được công nhận. 1. Việt hóa, cà phê 2. dùng tiếng pháp café. Chữ thứ hai coi bộ được dùng nhiều hơn, đến 80%. Café còn thêm nghĩa "quán café" (coffee shop). Hình của địa điểm nầy không rõ, chúng tôi dự đoán là Café & Eatery. Tất cả đều là tiếng Anh vì café Anh hóa (englicized) là một quán ăn nặng đủ thứ, trong đó café chỉ là thức uống phụ, có khi không tính tiền, uống hết châm thêm, uống nữa, uống nữa. Quen lối sống Mỹ sẽ ngạc nhiên khi cơ sở kinh doanh nầy dùng đến hai chữ gần như đồng nghĩa.
Ít nhất cho đến thời cận đại, café ở VN là một quán chỉ bán cà phê, quá lắm là thêm vài cái bánh. Không có bít tết, gà rô ti, xúp măng cua.
Chừng 1984, chúng tôi 5 trự vừa mới đến Mỹ, sau tiệc sinh nhật ồn ào, rủ nhau vô một quán "Café" ở Santa Ana để uống cà phê. Trự nào cũng đeo khô mực, trông oai nghiêm so với các thực khách địa phương. Chúng tôi gọi 5 ly cà phê.
Cô hầu bàn chờ mãi, phải lên tiếng hỏi order gì. Chúng tôi nói chỉ một tách cà phê cho mỗi người. Cô đáp: "Quý ông không đùa chứ? Coffee không mất tiền, chỉ là thức uống phụ như nước đá lạnh". Chúng tôi bèn giải thích cứ tưởng quán nầy là coffee shop như ở Saigon, Paris; vừa ăn đầy bụng, cần cà phê cho bao tử khỏi mệt và trò chuyện dài dài. Chúng tôi hứa sẽ trả tiền nhưng cô ấy nói coffee không có mã số (tag) để vô máy (computing) thu tiền. Thôi thì các ông uống "free", lần sau đói bụng xin ghé "quán của em xinh nầy".
Xã hội học gọi đó là hiện tượng "culture shock", khác biệt lối sống.
Với kinh nghiệm nầy, thiết nghĩ vào cái tiệm trong hình mà gọi một tách cà phê thì chủ quán không cự nự, không bị culture shock. Hóa ra cái tên nầy vừa Việt, vừa Pháp vừa Anh Mỹ. Tả pí lù.
Trước 1975, Saigon có hiện tượng "cafeteria" các quán mới hay quán cũ sửa lại. Café Hân êm ả đường Đinh Tiên Hoàng thay cái tên. Cafeteria là một phạn điếm, quán cơm, một căng tin, thường cho công nhân hay học sinh; hoặc là quán tự dịch (self serve) lấy thức ăn bỏ vào khay ra tính tiền trước khi đẩn. Các xưởng bắt đầu mở cafeteria được Bộ Kinh Tế và Bộ Xã Hội trợ cấp. Học không hết sách là vậy; thấy nó vậy liền chụp đem vào người.
Nhiều nơi viết không có dấu sắc khi dùng tiếng Pháp (cafe) nguyên do xưa bắt chước tiếng Pháp viết hoa không dấu: CAFE, REPUBLIQUE. Không dấu là nghề in bằng từng khối chì không thực hiện được, viết trên giấy phải có dấu. Sau khi kỹ thuật mới cho phép, Hàn Lâm Viện Pháp yêu cầu dùng dấu. RÉPUBLIQUE FRANÇAISE.
Chúng tôi xin đề nghị thống nhất hai cách viết: Café hay cà phê.
Ở Đà Nẵng có hiệu Coffee and Book Store. Người chủ đã hiểu chữ café Anh hóa như coffee. Hiệu nầy cần hiệu đính; hoặc coffee and book (bán cà phê và bán sách) hoặc café and book store. Sơ sơ chừng ấy thì đã mệt, huống hồ xem các bài song ngữ thì đến nguyên lý thời đại: muốn biết người Việt nói gì khi họ viết hai thứ tiếng nầy thì phải thông suốt Anh Ngữ và Việt Ngữ. Ngựa phi nước đại là ngựa vừa chạy vừa xả nước (the horse is running and spilling water).
Tiếng Anh đã tràn ngập xứ mình từ hotel năm sao cho đến chỗ xem bói như "see general" (xem tướng), free wife (free wifi). 2014, tôi đến Hà Nội thì thấy bảng hiệu tiếng Anh nhiều hơn các thành phố Mễ chung biên giới HK, khách mua hàng đều là dân Mỹ. 1982, người quen tôi ngoài rẩy kinh tế mới mặc chiếc áo thun có in chữ Georgia thân nhân mới gởi cho. Trên đường về Saigon, anh được mời vào trạm kiểm soát học bài luân lý không nên dùng tiếng ngoại; anh được ngồi một mình suy nghĩ sai quấy, anh đứng dậy bỏ áo mình trần ra về và yêu cầu trạm vui lòng đốt hay vất xuống sình cái áo vô luân lý vô đạo đức ấy. Bỏ của lấy người.
Thế sự thăng trầm quân mạc vấn. Chân lý hôm nay ngày mai là tà ngụy hay ngược lại, ngụy là chân lý ngày kia.
No comments:
Post a Comment