add this

Thursday, August 14, 2025



KHỔNG GIÁO BÌNH DÂN và CHÍ THIỆN
Lê Minh Khai 2013 TTT dịch

Bình dân mà khó hiểu. Thế mới lạ, thế mới khổ.
Từ thế kỷ 19, Nhật Bản bắt đầu tìm hiểu các xã hội Tây phương, đã nhận thấy rằng Tây phương tổ chức sự hiểu biết về thế giới khác với cách tổ chức của Nhật và Á Châu. Tây phương đã phạm trù hóa kiến thức thành các khối, như triết học, tôn giáo, văn chương và lịch sử, là những thứ không có tương đồng trong các xã hội Á Châu. Nói vậy không có nghĩa Á Châu không có triết học, tôn giáo. Trái lại, các tín điều, các cách trì hành không được quán niệm và kết tập như ở trời Tây, những danh tự như philosophy, religion không có ở Á Châu.
Mãi cho đến cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, giới trí thức Nhật mới viết xong các tác phẩm chưa từng có như "lịch sử Phật Giáo", "lịch sử tư tưởng Trung Hoa". Tiếp đến, học giả Tàu và Việt Nam mới làm theo.
Cuối thế kỷ 19 Matsumoto Bunzaburō xuất bản 支那哲學史  Chi Na Triết Học Sử. Tiếp theo Tạ Vô Lượng 
谢无量 ấn hành  中國哲學史 Trung Quốc Triết Học Sử năm 1916; ba năm sau Hồ Thích viết xong 中國哲學史大綱 Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương in 1919, mãi cho đến 1934, Phùng Hữu Lan dùng tên cũ Trung Hoa Triết Học Sử của Tạ Vô Lượng cho cuốn sách của ông cùng thể loại. Về phần VN, Trần Trọng Kim năm 1930 hoàn tất 儒教 Nho Giáo. 
Những công trình nầy có ba đặc điểm nếu không muốn nói nhược điểm.
- Tây phương hóa, hình thành như kiểu người Tây Phương viết về học thuật của chính họ.
- Một số tư tưởng Khổng Mạnh đã được liệt kê vào mục triết học, tuy thuộc về tôn giáo.
- Viết cho giới trí thức thượng lưu, về tri lẫn hành.
Nay đến lược các học giả Tây Phương bằng vào những tác phẩm đã Tây phương hóa để nghiên cứu Đông Phương. Kết quả Khổng Giáo (KG) dưới mắt Tây Phương chỉ là tam cương ngũ thường và xa hơn một chút là nhân 仁  và nghĩa 義. . ..
Hiện tượng văn học nầy giống như trường hợp thực phẩm quốc túy đem ra xứ khác đã thay đổi cho hợp thị hiếu địa phương mới. Ví dụ sushi của Nhật ở xứ người có thêm mayonnaise và cream cheese, dẫu rằng God và người Nhật thuần túy không muốn thấy hai thứ gia vị phụ nầy quệt vào mấy cuốn cơm và cá sống của xứ Phù Tang. Đấy là một sự nhiễu loạn, bóp méo thực tế lịch sử.

sushi

Khổng Giáo đến với Tây Phương như sushi ở New York City. Cứ theo những tác phẩm nầy, độc giả không thể tìm thấy KG như chính nó xuất hiện trong quá khứ, vì thực tế lịch sử đã bị thay đổi, nhiễu loạn.
KG bao trùm một hệ thống, một mạng lưới to lớn gồm lý thuyết và lề lối trì hành bởi những người tin vào quyền năng gọi là Trời và tin rằng các sách của Cửa Khổng là mẫu mực và qui tắc của trật tự xã hội và lối sống chung.
Những người mang những tin tưởng nói trên cầm giữ uy quyền chính trị trong các xã hội Á Châu, họ tạo ra cách thức tổ chức và điều hành chính quyền, không trái với sự tin tưởng vào quyền uy của Trời và túi khôn trong kinh sách KG.

Thế rồi Phật Giáo được du nhập vào Đông Á, lúc đầu đụng chạm thách thức vũ trụ quan KG, ví như PG không nhấn mạnh đến chữ hiếu ăn sâu vào xã hội không thể lay chuyển; PG tùy tiện lấy chữ hiếu đem vào hệ thống giá trị của mình để thuyết giảng giáo lý mới.
Mặt khác, quan niệm của PG về nghiệp (nhân quả) là một lý thuyết vô cùng mạnh mẽ mà các học giả KG phải thừa nhận và đem vào hệ thống tư tưởng cổ điển của Nho gia.
Một câu trong Kinh Dịch 易經 được bình giải để chứng minh KG đã từng chủ trương thuyết duyên khởi và nghiệp quả.

積善之家,必有餘慶,積不善之家,必有餘殃。
tích thiện chi gia tất hữu dư khánh; tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương. [Gia đình nào tích lũy nhiều điều lành sẽ được tôn vinh hạnh phúc; gia đình nào làm điều không tốt sẽ đầy rẫy tai ương].
Chữ căn bản ở đây là thiện 善. Chữ nầy chứng minh tính chất nghiệp quả trong tư tưởng KG tương đồng với nghiệp quả của PG và được dùng để cho mọi người điều hành việc nhà việc nước theo những qui chuẩn luân lý của KG.
Các Nho gia đã viết nhiều xã luận về sự dung hợp hai hệ thống tư tưởng; đó là những “thiện thư” 善書, không hẵn là những bài luân lý như tây phương đã hiểu và dịch thành morality book tuy phải dịch là goodness book mới đúng.
Khi viết các sách theo lối mới về KG, các ông Bunzaburō, Tạ Vô Lượng, Hồ Thích, Phùng Hữu Lan và Trần Trọng Kim không nói về thiện hay thiện thư vì đấy là KG của người bình dân. Các học giả nầy viết cho giới ưu việt, và nói nhiều về nhân 仁 và nghĩa 義.
Nếu bạn dùng các tài liệu lịch sử để tìm hiểu nhân và nghĩa, bạn có thể tìm gặp nơi nầy nơi kia nhưng nội dung khác với nội dung được trình bày trong các ấn bản tân thời và Âu hóa, những thứ nầy gọi là KG thêm mayonnaise và cream cheese.
Nếu bạn đi tìm cái thiện thì bạn không thể đạt ý muốn xuyên qua các tác phẩm ưu việt nầy. Trái lại, bạn sẽ mãn nguyện với rất nhiều ví dụ, khi dùng các văn biểu viết cho giới bình dân, hay viết về thế giới bình dân.

Tác giả vừa gặp một lời ghi trên bia đá (bi ký) khắc chừng năm 1582 gọi là Tín thí Pháp Vân tự bi 信施法雲寺碑. (Bia cúng chùa Pháp Vân). Bia viết bởi Nguyễn Đức Thông 阮德聰, tạm xem là một thầy ký của một viên chức chánh quyền (Trung thư giam hoa văn học sinh 中書監華文學生).
Mục đích của bi ký nầy là ghi nhận việc cúng đất và tiền cho chùa Pháp Vân của bà Nguyễn Thị Lũy 阮氏壘.

Bia ghi như sau:

夫福善者,乃天至公之道,好善者,斯人秉彝之性,人能行善,則天心以福報應,理之自然,無毫髮爽,故經云積善之家,必有餘慶,良有以也。
phu phúc thiện giả nãi thiên chí công chi đạo, hảo thiện giả, tư nhân bỉnh di chi tính, nhân năng hành thiện, tắc thiên tâm dĩ phúc báo ứng, lý chi tự nhiên, vô hào phát sảng, cố kinh vân tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh, lương hữu dĩ dã.
[Tâm lành làm ra các điều thiện là luật hết sức công bằng của Trời. Thích ý thiện là đặc tính của những người tuân thủ các tiêu chuẩn luân lý. Cho những ai có thể làm việc tốt, Trời sẽ thưởng bằng phước, như một chuyện tự nhiên, không sai trái chút nào. Kinh Dịch có nói: Gia đình tích lũy nhiều điều thiện sẽ được tôn vinh hạnh phúc. Thế thì đúng ngay vào trường hợp nầy.

今順安府嘉林縣朱橋社阮氏壘號慈在,斅善心,損家美財田土信施與法雲寺佛,其所以做善緣培福基,種福根浚福源,至深至廣,諒知其天道感應福善之報,悠久延長,曷有窮也。
kim Thuận An phủ, Gia Lâm huyện, Chu Kiều xã Nguyễn Thị Lũy hào từ tại thiện tâm, tổn gia mỹ tài điền thổ tín thi dữ Pháp Vân Tự Phật, kỳ sở dĩ tố thiện duyên bồi phúc cơ, chủng phúc căn tuấn phúc nguyên, chí thâm chí quảng, lượng tri kỳ thiên đạo cảm ứng phúc thiện chi báo, du cửu diên trường, hạt hữu cùng dã。
[Nguyễn Thị Lũy hiện ở xã Chu Kiều, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An có lòng tốt đã dùng một phần gia sản và ruộng đất cúng dường chùa Pháp Vân để tỏ lòng thành. Bà đã tạo nên duyên lành, phát triển nền móng phúc lợi, bà đã trồng cội phúc, đào sâu thêm mở rộng thêm suối nguồn ân phước. Với những điều nầy, ai ai cũng thấy Trời sẽ cảm ứng và sẽ thưởng những điều lành điều thiện mãi mãi không ngưng].
Vậy thì đây rất chi là Khổng Giáo, nhấn mạnh quyền uy của Trời và căn bản lý thuyết là Kinh Dịch. Bi ký nầy không nhắc đến những điều đầy rẫy trong các sách mới, cũng không nói đến nhân nghĩa. Nơi đây chỉ có thiện là gốc, để sinh ra phúc nhờ cảm ứng của Trời; Trời thấy và thưởng.
Những quan niệm căn bản nòng cốt của KG vừa nêu đã lan truyền nơi nơi, đã tạo nên điều gọi là nền văn hóa bình dân Đông Á.
Cái thiện trong KG được nói tới một cách rộng rãi khi bàn luận về nghiệp quả của PG. Toàn văn bi ký nói trên chỉ dùng một thuật ngữ PG là thiện duyên 
善緣 nhưng nó cũng gồm chữ thiện của KG. Chỉ một tấm bia nầy đã mang đủ hai nền tản triết lý Khổng và Thích, và hai quan niệm nầy không thể tách rời nhau. Một bi ký đầy tính chất Khổng Giáo, đặt trong một ngôi chùa thờ Phật. Sự kiện vật thể và tinh thần bi ký cho thấy sự dung hợp rộng rãi và tinh thần bao dung của Đông Á.
Tấm bia đá nầy nói lên đầy đủ tầm quan trọng của "thiện". Nhưng thiện không được đề cập trong các tác phẩm tân thời; hơn thế nữa, những tác phẩm nầy tạo nên các trở lực cho việc tìm hiểu nền văn hóa bình dân, như làm thiên hạ không thể hiểu tấm bia nầy.

It nhất cho đến thời kỳ tiền tân thời giao tiếp với Tây Phương, VN là một nước Khổng Giáo. Học giả VN cần biết về thiện, chứ không phải cái gọi là triết lý của một Khổng Giáo mayonnaise và cream cheese. Thiện đã ăn sâu vào xã hội VN cho dù bao biến đổi thời thế.

https://leminhkhai.wordpress.com/2023/12/06/popular-confucianism-culture-in-premodern-vietnam/


No comments:

Post a Comment