add this

Friday, January 2, 2015

bối cảnh trước thời Phật Giáo


378034654_07e261e08b_z
di tích văn minh Harappan
Bối cảnh trước thời Phật Giáo
tôn tht tu

Hân hạnh giới thiệu chương hai trong cuốn The Tree of Enlightment của tiến sĩ Peter Della Santina thuộc đại học Chico, California. Tiếp theo phần viết riêng là bản dịch và nguyên tác. Xin đọc bản tiếng Anh vì bản tiếng Việt dùng cho bạn nào không thích ăng lê.Vì lý do kỹ thuật bài nầy chia thành ba post.


Chỉ nói về con số vô cùng hạn hẹp những tài liệu mà tôi có dịp xem tới, không có nơi nào nói về bối cảnh lịch sử của thời trước khi Phật Giáo hình thành. Vì vậy chương ngắn thứ hai trong cuốn sách của Peter Della Santina gây nhiều chú tâm .
Đầu tiên bắt nguồn từ sự tò mò tìm hiểu về người Aryan. Danh từ ấy rất quen thuộc với chúng ta và được làm nổi bậc vì Hitler đã dùng trong chủ nghĩa độc tôn giống nòi với tất cả những di lụy mà trên mức độ hoàn vũ đã ảnh hưởng đến VN giữa thế kỷ 20.
Đám dân du mục và du cư đã từ Đông Âu đến tiểu lục địa Ấn xâm chiếm và áp đặt một nền văn hóa thế tục và kém văn minh hơn, nhưng rồi cũng bị cọ xát và buộc phải thay đổi theo văn hóa văn minh của kẻ bị trị. Tác giả lượng định mốc thời gian là thế kỷ 18 trước Tây lịch. Các sử gia còn tranh luận giữa xâm chiếm và di dân. Santina không đề cập cuộc bàn cải mà chỉ đơn giản nói đến sự xâm lăng.
Cá nhân tôi, tôi cũng theo quan điểm ấy. Dân Aryan trước khi đến Ấn đã thực hiện các cuộc chiến và sống nhờ các chiến lợi phẩm; nhân sinh quan và vũ trụ quan của họ rất thích hợp với chiến tranh. Vị thần số một, Indra, là một chiến binh. Thực tế hơn, ngành khảo cổ cho thấy họ đã dùng ngựa và chiến xa. Giao tranh hẳn xuất hiện, theo Rousseau, khi con người biết phân ranh điền thổ. Nhưng sự thuần hóa con ngựa đã đưa chiến tranh lên qui mô rộng lớn. Khảo cổ cũng cho thấy những đống xương người không chôn cất. Như trong bài có nói, người Ấn trước đó đã chú trọng đến các con vật như nai và voi, tượng trưng cho hiền hòa.
Có thể cuộc xâm chiếm dễ dàng vì Ấn lúc ấy đang thoái hóa vì  hạn hán hay động đất đã làm khô nhiều lưu vực, có những thành phố bỏ hoang. Không ảnh tân tiến từ vệ tinh cho thấy một lưu vực bị khô gọi là Hakra nơi sông Savarasti một thời đi qua. Nhưng thung lũng Ấn là một vùng rộng lớn mấy chục lần hơn khu Hakra nên không thể đồng loạt tiêu điều như vùng tai ương hoành hành.
Santina nói từ thế kỷ 15 trước TC, hai nền văn hóa của kẻ ngoại xâm và kẻ bị trị bắt đầu tương tác, mở đầu diễn trình tương nhượng, tương hợp. Theo các sử gia cuộc xâm chiếm của Aryan xẩy ra thế kỷ 19. Nếu hai con số ấy chấp nhận được thì phải mất đến 400 năm hai bên mới bắt đầu cuộc giao tiếp kéo dài gần ngàn năm cho đến thời Phật Thích Ca.
400 năm của kẻ xâm chiếm thiện nghệ dàn trải trên gần 20 thế hệ đời người. Sử gia quá quen với đơn vị thời gian như thế kỷ, thiên kỷ, trăm năm ngàn năm nên không thấy sự bi đát của đời người ngắn hạn trong cái “sát na lịch sử” của họ. Mà đã bị trị thì nghèo khổ, tâm tư nhầu nát nhất định không sống lâu.
Người Palestine mất nước vào các trại tỵ nạn lúc còn trẻ và ở mãi cho đến khi cháu ngoại nội đã bằng mình khi bắt đầu bước lưu lạc. Đi cải tạo tám chín năm về thì thấy con đã ngồi trên chiếc xích lô hì hạch chở người kiếm cơm, hay còn tệ hơn nữa, chứ đừng nói chuyện cho chúng đi học vài chữ của Thánh Hiền.
Không rõ hệ thống giai cấp là sáng chế của các kỹ sư tinh thần suy nghiệm tiên thiên hay là nhu cầu thực tế giúp người Aryan cai trị. Kinh Veda nói xã hội phải chia ra bốn cấp: tăng lữ / vua quan chiến sĩ / thợ thuyền thương gia / và nô bộc. Nhưng thực tế có thêm một giai cấp là lớp bần cùng, Intouchable. Như vậy, ít nhất giai cấp thứ năm xuất hiện như một nhu cầu của kẻ thống trị từ phương xa đến.
Người Ấn tại chỗ là giống người Dravidien, da ngâm đen. Họ bị dồn về phía Nam. Đây không phải là suy diễn. Khoa truyền sinh (genetic) ngày nay dùng DNA đưa đến kết quả như sau. Lớp người da trắng, giàu có ở phía bắc có nét truyền sinh gần với người Đông Ấu (gốc đồng cỏ của Aryan); người Dravidien phía nam nghèo có nét truyền sinh thuộc giống aboriginal tức Đông Á. Khoa ngôn ngữ cho biết người Dravidien bị dồn ép thành những hòn đảo văn tự từ một gốc chung.
Sự phân chia nầy đã đảo lộn điều mà Santina gọi là dòng sinh mạng thái hòa. Cuộc xâm chiếm bởi Aryan làm liên tưởng đến hai cuộc hành quân bành trướng của Hung Nô và Mông Cổ. Cả hai, nhất là Hung Nô xuất phát từ những cánh đồng cỏ vùng sa mạc như người Aryan.
Sau cuộc xâm chiếm của Aryan hơn hai ngàn năm, Attila thủ lãnh Hung Nô đã tạo nên một đế quốc rộng lớn; rồi từ phía Bắc Âu Á,  tràn xuống Âu Châu vây khổn đế quốc La Mã, suýt chiếm Rome. Attila tượng trưng cho thần hủy diệt, chính miệng ông nói: Nơi nào có vó ngựa ta đi qua nơi ấy cỏ không mọc được. Nhưng giặc Hung Nô chỉ như một cơn hồng thủy nguy hiểm, nhà cửa tiền bạc thân nhân mất đi; kẻ sống sót tái tục sự sống. Với cái chết ở tuổi 46 (năm 453) của Attila, liên minh Hung Nô tan rả. Họ không để lại những nét văn hóa hay con cháu như người Aryan. (Lý thuyết cho rằng Hung Gia Lợi gốc Hung Nô chưa được chấp nhận hoàn toàn. Khảo cổ khai quật nhiều vật dụng của người Hung Nô vì Attila đặt bản doanh trong khu vực nầy trong chiến dịch đánh Âu Châu, chính Attila chết trong thung lung Tisza xứ nầy. Một nhóm đang xin chính quyền công nhận qui chế thiểu số gốc Hung Nô).
Cũng từ các đồng cỏ, ngay đầu thế kỷ 13, Thành Cát Tư Hãn đã thành lập đế quốc Mông Cổ. Thành Cát Tư Hãn đánh chiếm cả nước Nga và đổ xuống Âu Châu, chiếm một diện tích gấp bốn đế quốc La Mã. Hoạt động quân sự Mông Cổ có phần nào giống cuộc điều binh của Hung nô; nghĩa là làm điêu đứng thiên hạ vẫy vùng khắp nơi rồi cũng phải triệt thoái. Nhưng hậu sinh khả úy, họ rút về quê quán, chỉnh đốn hàng ngũ, rồi trở lại con đường của Hung Nô là đánh chiếm Trung Hoa. Vạn Lý Trường Thành không ngăn được Hốt Tất Liệt như nó được xây để chống bắc xâm. Người cháu nội nầy của Thành Cát Tư Hãn đã lập nên nhà Nguyên; triều đại đầu tiên của Tàu do người ngoại quốc làm thiên tử và người Hán bị ở vào thế thứ dân.
Việc xâm chiến nước Tàu đã rõ ràng không còn cải vả như trường hợp Aryan đến thung lũng Ấn. Nếu dân đồng cỏ Tây Âu áp đặt một nền văn hóa mới hết sức khác biệt và phải mất cả ngàn năm mới gọt bớt các góc nhọn để tương tác với địa phương – Mông cổ đã tự nguyện biến thành Tàu, đến mức hầu như bảo hoàng hơn vua. Nhà Nguyên đã nhìn quê nội Mông Cổ như một nước láng giềng, một quốc gia như các quốc gia khác trong bang giao quốc tế.
Vào lúc ấy, nước Tàu văn minh nhất thế giới. Thế kỷ 13, Âu Châu còn trong thời Trung Cổ xa cách thời Phục hưng đến 200 năm. Trường hợp nhà Nguyên là ví dụ điển hình cho lý thuyết văn hóa nhân bản siêu việt sẽ thắng cái bạo tàn hung hăng của kẻ cướp nước.
Tuy vậy nhà Nguyên vẫn bạo tàn như bao giờ. Sử sách Trung Hoa nói đế quốc Mông Cổ đã sát hại 30 triệu người, và dưới triều Nguyên nước Tàu mất đi một nửa dân số.
Hai cuộc chiến nầy dùng để minh chứng tầm quan trọng của việc thuần hóa con ngựa và tính cách hiếu chiến của các dân du mục sống trên truông cỏ sa mạc đã quen chinh phục ngoại cảnh. Gobi của Thành Cát Tư Hãn là sa mạc khắc khe nhất. Phần lớn là đá trơ; ban trưa nước gần như sôi, ban tối nước thành băng. Mông Cổ đã tìm cách huấn luyện ngựa chạy trên băng, việc làm duy nhất của kỵ binh thế giới.
Tuy cố tránh cảm tính động chạm, tôi cũng xin nói đến lưu ý của các nhà nhân chủng học về nguy hiểm của tâm thái sa mạc, khắc khổ và không tương nhượng của các tôn giáo ở Trung Đông trong đó có Muslim.
Lại nói chuyện về sau. Thế kỷ thứ năm tTC, tiểu lục địa Ấn bị Hy Lạp chiếm đóng với đạo quân của A Lịch Sơn (Alexandre Đại Đế) để bị sáp nhập vào đế quốc Hellenique. Năm 321 tTC Chandragupta Maurya đã lật đổ nền cai trị ngoại bang và lập nên đế quốc Maurya. Cháu nội của ông kế nghiệp thành vua Asoka danh tiếng trên nhiều lãnh vực mà ai cũng biết.
Nhưng Asoka là thời cực thịnh nên sự đi xuống của đế quốc nầy được đánh dấu bởi sự thành lập vương quốc Ấn Hy do người Hy Lạp cầm đầu trong suốt hai thế kỷ cho đến năm 10 sau công nguyên.
Trội nhất là Memander trị vì từ 155 đến 130. Ông đã theo Phật giáo sau một cuộc vấn đáp vô cùng khó khăn với tỳ kheo Nagasena. Ghi ký cuộc thảo luận nầy thành cuốn Milinda Panha trong kho tạng điển Pali, một trong những kinh quan trọng nhất của Theravada. Bản dịch ngắn của Cao Hữu Đính và dài của Thích Giới Nghiêm mang tựa đề Kinh Na Tiên. Milinda có công giúp truyền bá PG qua Hy Lạp và cả đến Ai Cập. Nhiều vị sư Hy Lạp cũng đi truyền đạo.
Sự hiện diện của người Hy Lạp lần thứ hai không gây xáo trôn nhiều. Ngay ông nội của Asoka cũng lấy vợ người Hy Lạp và những đám cư dân Hy Lạp tiếp tục sống dưới triều vua Ấn. Điểm quan trọng nhất, người Hy Lạp đã đưa nghệ thuật điêu khắc mang hình thể Phật và các Bồ tát. Trước đó, khi cần chỉ dùng những dấu hiệu như bánh xe chuyển pháp. Những tượng to lớn như ở Vũng Tàu cũng nằm trong đường hướng nghệ thuật nầy. Hai bức tượng lớn ở Afganistan đã bị Taliban phá hủy vào thời chiến tranh mà Mỹ nói chống khủng bố.
Vùng đất phì nhiêu Ấn lại bị xâm chiếm bởi người Hồi trong tinh thần một tôn giáo vùng sa mạc.
Trở lại bài chính, tác giả Santina muốn nhấn mạnh rằng hai nguồn tư tưởng khác biệt và trái ngược sau cả ngàn năm đã nhập chung và không thể phân biệt ngay cả cho đến ngày nay. Một nhận định quá tổng quát quá to lớn, to lớn về địa dư, to lớn về thời gian ….Cho nên thật khó lòng mà nói đúng hay sai.
Nhưng Ấn Độ có truyền thống dung hợp. Dù có khó tánh chăng cũng phải thừa nhận nền văn minh cổ thung lũng Indus đầy nhân ái, nghĩ đến những chuyện bên kia bờ sống chết. Hãy tưởng tượng sau một thời gian khá lâu chịu đựng, người bản xứ bị trị chấp nhận thái độ sống riêng hòa bình. Họ lấy tính chất thế tục của Aryan làm một thứ hình nhi hạ (vì thiếu chữ) quân bình cho cái hình nhi thượng của mình.
Tuy vậy trên thực tế, kẻ xâm chiếm bao giờ cũng ở thế mạnh, tìm mọi cách áp đặt mọi việc theo ý mình. Xã hội nào cũng tổ chức thế nào có lợi cho giai cấp cầm quyền. Aryan chỉ chấp nhận lối sống định cư nhưng không chối bỏ quan niệm tôn giáo của mình. Các nhà xã hội học thường nói dân bị trị chỉ chấp nhận như một thực tế nhưng không tiếp nhận vào mình, accepting not adopting, not embracing. Bạn sẽ nghĩ gì nếu sống trong thành phố mang tên Bucephala. A Lịch Sơn đã sát hại dân cư và đập nát từng đô thị trong cuộc chinh phục xứ Ấn; ông đã đặt tên ấy cho một thành phố mới xây trên chiến địa để vinh danh con ngựa Bucephala đã đưa ông từ Hy Lạp đến Ấn và đã chết trong trận chiến quanh vùng. Đặt tên là Alexandre người ta còn chưa chịu huống là tên con ngựa.
Chừng hơn một ngàn năm sau khi Aryan vào Ấn, các tôn giáo trong nhóm gọi là shramana hoạt động mạnh mẽ. Shramana tên gọi chung cho các tôn giáo tin vào luân hồi và tìm cách giải thoát khỏi sinh tử. Nhóm nầy hoàn toàn dựa vào văn hóa cũ của thung lũng Indus, tách biệt văn hóa Veda của Aryan. Trội yếu nhất là Phật Giáo và Kỳ Na Giáo (Jainism).
Vì vậy quan niệm của Santina có thể hiểu theo lối Khổng Tử, hòa nhi bất đồng (quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa).
Santina cho rằng sự hòa hợp ấy có nguyên do từ những thay đổi lớn trong lối sống để đi đến một xã hội đa dạng vào lúc Phật giáo ra đời. Qua sự trình bày trong bài, sự thay đổi từ phía Aryan nhiều gấp bội so với dân địa phương, chúng mang tính chất thế tục và vật chất, như văn hóa Aryan vẫn đã thế tục từ trước. Chúng rất thuận lợi và dễ dàng cho Aryan.
Thật vậy, đã mang trong người tính chất thế tục, nay tiến chiếm xứ người, của cải giàu sang, nhiều và nhiều hơn những đồ tế nhuyễn trên lưng ngựa, nhà cửa đất đai, thì ngồi mà hưởng đi đâu cho mệt. Việc định canh định cư, đô thị hóa là việc đương nhiên, vả lại đã có sẵn kinh nghiệm và kỹ thuật của kẻ bị trị. Không những thế, hãy tưởng tượng qua những kinh nghiệm gần hơn, từ hoang sơ rừng rú đến cuộc sống đô hội, người mới rất ngố và đi vào con đường vật chất xa hoa vô tội vạ từ sự giàu sang mà Santina gọi là chiến lợi phẩm (spoil of the war).
Tác giả nói đến sự xuất hiện các thương gia. Nhưng không cần phải có cuộc đột nhập nầy mà thương mãi mới thành hình. Thung lũng Indus phì nhiêu, canh nông phát triển thì việc buôn bán phân phối tự nhiên ra đời theo các diễn trình phát triển khắp nơi. Với cái phồn vinh không giả tạo lấy trên tay người, thay đổi từ thiếu thốn qua giàu sang, từ du cư đến định cư trên đất phì nhiêu thật dễ, nếu không muốn nói quá dễ, tuy rằng lắm khi hơi ngố.
Nhưng đòi hỏi sự thay đổi về tâm linh để chấp nhận một nhân sinh quan hay vũ trụ quan trái ngược thì hầu như không thể có ngoại trừ lớp người tán tận lương tâm. Cho nên như trên có nói, accepting mà không adopting. Về lâu về dài, sự im lặng êm ả bên ngoài có thể chỉ là sự nhẫn nhục. Kẻ mạnh vào nhà thì phải gọi chúng bằng anh. Thói quen (qua nhẫn nhục) theo tiếng Pháp là một cái giảm âm bớt khổ và thành luật sống (En faisant lois, habitude devient une sourdine de souffrances).
Có thể chủ quan mà mường tượng rằng văn hóa thống trị của Aryan tạo nên tình trạng vong thân xa lìa từ phía dân chúng. Những tư tưởng mà thi sĩ Gordon của Anh nói là đã hóa thạch (fossilized) tồn tại như sương phủ Hy Mã Lạp Sơn, những tư tưởng ấy sống trong dân chúng qua vô số tôn giáo gọi là Shramana như có nói trên. Và chính thái tử Tất Đạt Đa cũng theo học các môn phái khổ hạnh trong nhóm nầy. Sự tách biệt ấy cũng có thể là nguyên do tạo nên những sự thờ cúng tín ngưỡng kỳ quái từng địa phương như những chiếc áo giáp trước sức tấn công của người xâm chiếm.
Sự kiên cố ấy đưa đến ghi nhận sau đây của Santina:
Mặc dù người Aryan đã đô hộ về vật chất nền văn minh tại chỗ của bán lục địa Ấn, một ngàn hay hai ngàn năm sau chứng kiến họ chìm dần trong ảnh hưởng của thái độ tôn giáo và cách hành đạo cũng như các giá trị xuất phát từ tôn giáo của văn minh Thung Lũng Indus (TLI). Do đó, từ khi bắt đầu công nguyên, ngày một thêm khó trong việc phân định truyền thống Aryan và truyền thống TLI.
Cho đến đầu công nguyên thì cũng phải mất 15 thế kỷ trong đó PG đã đóng góp 6 thế kỷ. PG không chống đối phá phách, luôn nhấn mạnh dung thông vô ngại. Đường lối đã được nêu trong kinh Pháp Hoa: diễn pháp thì phải mặc áo Như Lai, ngồi nhà Như Lai; chỉ nói giáo pháp của mình, không chỉ trích ai; chánh pháp là ánh sáng thì bóng tối tự tan biến. Asoka tuy là vị Phật vương quyền thế vẫn chủ trương kính trọng tăng lữ Ba La Môn và mọi tôn giáo, chỉ trừ việc cấm sát sanh để cúng tế.
Mặt khác tiểu lục địa nầy đã giao tiếp văn minh Hy Lạp (Hellenique) với nền học thuật cổ điển từ Socrate. Vương quốc Ấn Hy chấm dứt năm 10 sau công nguyên. Đây muốn nói sự rộng rãi phóng khoáng của nhiều luồng tư tưởng sống chung. (Aryan có tôn giáo phần nào giống Hy Lạp, họ không mang theo học thuật của xứ nầy).

Về phương diện Phật học thuần túy, theo tinh thần bài viết, PG đã có nguồn cảm hứng từ văn minh Indus, thừa hưởng những điều có ý nghĩa từ cái nôi văn minh ấy. Theo Santina, PG có vay mượn vài yếu tố nhỏ trong nguồn tôn giáo Aryan nhưng chỉ có giá trị ngoại biên. Ông viết: Có thể hiểu rằng Đức Phật muốn nêu rõ nguồn gốc tôn giáo mà Ngài quảng diễn nằm trong văn minh TLI khi Ngài nói rằng con đường Ngài dạy là con đường xưa và mục đích Ngài nêu ra cũng là mục đích xưa. PG xác nhận có sáu vị cổ Phật đã thành đạt rực rỡ trước Phật Thích Ca. Điều nầy cho thấy sự tiếp nối giữa văn hóa tôn giáo TLI và các giáo lý của Đức Phật.
Trích dẫn nầy sẽ làm thất vọng những ai cho rằng chỉ có Phật mình mới số một, rằng PG là cái tinh anh tinh hảo, rằng hoa sen hiện diện chỉ để làm biểu tượng cho Phật giáo, nó phải mang những ý nghĩa thực vật để minh họa cho giáo lý.
Ở chương nầy, Santina đứng trong phạm vi lịch sử. Liên tưởng đến Khổng Tử tự ghi nhận công trạng của mình chỉ là thuật nhi bất tác (viết lại kinh xưa). Nhưng nếu đưa vào quan niệm chân lý như nhiên, điều nầy lại đúng thêm. Phật luôn nói đến Tam Thế Chư Phật. Quá khứ hiện tại và tương lai đều chỉ có một chánh pháp. Trong Kinh A Di Đà, Phật mười phương (bản hán văn chỉ có sáu phương) đều nói một lời như nhau: thuyết thành thiệt ngôn.
Sự tương tác dung hòa được thực hiện hầu như một chiều. Những tôn giáo xuất phát từ hậu cứ Veda bỏ thêm vào kinh điển của mình ý niệm về nghiệp, cõi hồng trần, chứng ngộ tự thân và nhiều nữa.  Những điều ấy, trên mức độ rộng lớn, trái với tín ngưỡng căn bản của Aryan. Chứng ngộ tự thân thì không cần sự trung gian của tăng lữ, không cần tế tự sát sanh.
Santina có phần lý tưởng hóa. Nhưng với những con mắt trần tục, thích lý sự cùn – đó là cuộc xào nấu để hấp dẫn quần chúng. Phật thành một công cụ của thần Vishnu đánh dẹp quỉ ma ra khỏi vùng trời Veda.
PG không hẵn là toàn thân của nguồn tín ngưỡng thung lũng Indus nhưng là một tôn giáo từ gốc nầy có ảnh hưởng sâu đậm trong thời chánh pháp (500 năm từ khi có Phật). Giai cấp nghèo đã đi theo như một giải phóng xã hội và tâm linh.
Nhưng vào thời tượng pháp (sau 500 năm) các căn bản chính truyền đã thay đổi, mất dần hậu thuẩn xã hội. PG đã bị lung lạc bởi Ấn Giáo để rồi nhìn qua thì hai thứ ấy giống nhau. PG từ từ phải ra đi khỏi Ấn tuy chưởng cuối cùng bị đánh từ Muslim, đánh dấu bởi sự đốt phá đại học và thư viện Nalanda.
Như vậy điều tôi mạo muội nêu trên – hòa nhi bất đồng – cũng không hòa cho lắm. Về mặt xã hội, vẫn có những xáo trộn tôn giáo đưa đến chém giết và phá phách.
Lịch sử Ấn được đánh dấu bằng các mốc quan yếu là các cuộc xâm lăng của các bộ lạc du mục. Những xung đột ấy luôn kèm theo các vấn đề tôn giáo tín ngưỡng. Trong lúc ấy nước Tàu rộng lớn chỉ có xáo trộn về chính trị, thay ngôi đổi chủ, can qua không kém gì ai, nhưng nếp sống vẫn như cũ trên những đường nét chính. Cũng như triều Trần qua triều Lê, na ná giống nhau nhưng lịch sử với sự đô hộ của Pháp đã qua một ngõ khác.
Thế kỷ 13, người Muslim đã chiếm Ấn trong một cuộc điều binh tàn khốc nhất trong lịch sử loài người.-


No comments:

Post a Comment