add this

Tuesday, January 6, 2015

sầu Ai Lao và Tây Tiến


  
  giới thiệu Đỗ Hữu
  tôn thất tuệ


Su Ai Lao
Đ Hu

Đã lâu trăng c vàng hiu ht
Mây c su tuôn núi võ vàng
Lá vn phai chàm trên sc áo
Mưa ngun thác đ đá mù sương.

Gia ngày lc lõng trên rng rm
Vi nng bâng khuâng mây thu nào
Vi núi xanh lơ chiu tím nht
Mây tri bàng bc su Ai Lao.

Lưng đèo quán gió m hun hút
Thôn bn nm trơ dưới nng chiu
Tai vn nghe đu dòng thác đ
Người ơi, thương nh biết bao nhiêu!

đây hơi đá chiu vây khp
Khép cht mình tôi gia núi rng
Bun quá ngày đi đêm tr li
Hoàng hôn hoa bn phn rưng rưng.

Người có theo tôi lên dc nng
Nhìn xem hoa ri sc trên đường
Chiu nay gió thi bun ghê lm
Lá đ sau chân mt li vàng.---


Trà Đỗ Hữu thì ai cũng biết là danh tiếng vùng Lâm Đồng Bảo Lộc. Xe đò luôn ghé vào tiệm Đỗ Hữu cho khách nghỉ ngơi và mua trà như ai đi Huế cũng mua mè xửng. Nhưng thi sĩ Đỗ Hữu thì không biết ông là ai, thi phẩm của ông cũng không ai biết. Tôi gặp bài thơ nầy trên tạp chí Tân Văn, chủ nhiệm là Hoàng Dược Thảo.

Trong tập số 8 tháng 3-2008 Trần Trung Thuần tóm lược một bài báo của người khác trên internet với hai bài thơ duy nhất của Đỗ Hữu mà chính ông cũng không biết gì về thi sĩ nầy. Huỳnh Ngọc Chiến tìm gặp chúng trong một cuốn sách giáo khoa của Bùi Giáng soạn cho học sinh thi tú tài thời VNCH:Vài Nhận Xét Về Bà Huyện Thanh Quan (nxb Tân Việt Saigon 1957). Cả hai ông Chiến và Thuần đều không nói Bùi Giáng có biết gì về Đỗ Hữu hay không.
Họ đồng ý với nhau là khen Bùi Giáng có tâm hồn khoáng đạt, không “văn mình”, trái lại lòng yêu thơ đã làm cho Bùi Giáng quí trọng những bài thơ hay của bất cứ ai, thời nào, chỗ nào. Rất tiếc ông Chiến không cho biết nhận xét của Bùi Giáng, hay nói về quan niệm thi ca của Bùi Giáng thế nào khi đưa hai bài của Đỗ Hữu làm minh chứng. Đây bài thứ hai của cùng tác giả.

Chiều Việt Bắc
Đ Hu
Nng xung phương nào người thy không?
Mà đây chiu tím rng song song
Vàng tuôn my li ngày thu qunh
Ai lim hoàng hôn kín mt trong?

Khói thuc lên m xanh bóng ai
Phương xa chiu xung ngút sông dài
Đường kia có phi su xưa đng?
Tr bước hoa lau trng ngp đi.

Con đường đt đ m sau bn
Thung lũng vàng tơ nng tr chiu
Núi biếc chp chùng vây i lnh
Dm v lá đ phn tàn xiêu…

Rng núi âm u chiu Vit Bc
Chy ngày lc bước ai ngi than
Bun xưa chiu đng su lau lách
Chòi cũ nm nghe gió dm trường…


Nếu ông Chiến chỉ biết hai bài thơ nầy qua tay người khác chứ không trích từ cuốn sách giáo khoa nói trên, rất có thể Bùi Giáng còn ghi thêm ít nhiều chi tiết. Nếu có cơ duyên tìm gặp cuốn sách  xin để ý trường hợp nầy.  Hai tác giả nầy cho rằng Bùi Giáng phải mất nhiều năm soạn thảo và ấn loát, và dự đoán mất ba năm. Sách xuất bản 1959 cho phép họ nói rằng Đỗ Hữu đã sáng tác trong khoảng thời gian ở bên Lào trong chiến dịch Tây Tiến như Quang Dũng cũng đi trong dịp nầy.

Nói như vậy vẫn còn khó hiểu vì Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào. Đoàn quân gồm phần đông là thanh niên Hà Nội trong đó có nhiều học sinh, sinh viên (như nhà thơ Quang Dũng). Chiến đấu khắp các địa bàn thuộc tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa Sầm Nứa, trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Quang Dũng làm bài Tây Tiến năm 1948.

Tôi thật dốt chỗ nầy. Chỉ biết ông hoàng Souphanouvong qua Hà Nội nhận lệnh HCM thành lập Pathet Lao năm 1951; sau đó quân BV và Pathet chiếm miền trung Lào; hậu quả là nội chiến cho đến 1955, khi Pathet Lào chịu nhận hai tỉnh phía bắc. Như vậy quân BV có mặt trên đất Lào cho đến thời điểm nầy, cũng là lúc mà ông Chiến ức đoán Bùi Giáng đã có hai bài thơ của Đỗ Hữu trong tay. Nói khác hai bài nầy được sáng tác trong khoảng từ 1947 đến 1955. Quang Dũng bị đuổi khỏi hàng ngũ năm 1953 vì làm thơ lãng mạn. Nói cho cùng là làm thơ ngoài đường lối CS. Rất có thể Đỗ Hữu cũng đã bị dập vùi, bỏ của lấy người; bạn hữu không ai dám chép, đọc thơ của ông.

Nhưng để cho tận cùng kỳ lý, đã không biết tác giả là ai, bài viết lúc nào, mà thơ chỉ có chữ Ai Lao ngoài ra không có gì về hành quân nầy, chiến dịch nọ như trong bài Tây Tiến, thì làm sao nói tác giả trong đoàn quân viễn chinh của BV. Không ai cấm một người ngoài quân đội thấy thu về nơi thôn bản mà có cái sầu Ai Lao. Không ai cấm một ghi nhận núi biếc chập chùng vây ải lạnh ở Việt Bắc và thấy lá đổ sau chân một lối vàng trên đất Lào. Hai chữ Việt Bắc, không biết xuất xứ từ đâu, mang đầy tính chất kháng chiến, nhưng chưa đủ lý 100% để nói Đỗ Hữu nằm trong chiến dịch Tây Tiến của BV. Thế nhưng thôi, hãy nói là kháng chiến, viễn chinh bằng những chi tiết như khép chặt mình tôi giữa núi rừng hoặc phương xa chiều xuống ngút sông dài.

Trần Trung Thuần và Huỳnh Ngọc Chiến tin tưởng có sự giao cảm nghệ thuật giữa Đỗ Hữu và Quang Dũng nhất là trong bài Tây Tiến. Cảm quan nghệ thuật hoàn toàn chủ quan. Ông Thuần nhận xét thơ của Đỗ Hữu hay hơn của Quang Dũng.
Phần tôi, tôi chỉ thấy những nét hay riêng mà không so sánh vì mọi sự chọn lựa đều độc đoán buộc phải hy sinh điều không được chọn.

Tây Tiến cho thấy tác giả Quang Dũng lão luyện, ngôn ngữ chắc nịch, như những nhát kiếm đủ sức hàng phục đối phương. Điều độ nhưng quyết liệt như phim võ hiệp Nhật, chứ không vung vít dư thừa như phim công phu của Tàu.
Giá trị của Tây Tiến nằm trong nét hào hùng, không phải của đoàn quân, mà của sức mạnh ý chí nhận thức ở chiều thứ tư (4th dimension), có tính chất nhân chứng.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Không gian của Quang Dũng chen chúc những người là người, làm thành bức tranh linh hoạt; không gian không giới hạn trong rừng núi, đem người đọc từ những nấm mồ rải rác nơi biên cương đến Hà Nội có bóng dáng nồng thơm, từ rừng sâu đến một kinh đô khác là Viên chăn. Không gian đó cũng là không gian nội tâm. Sông Mã gầm lên khúc độc hành, như sư tử hống, vạn loại muôn thú cùng cây cỏ ngưng thở mà nghe. Khúc độc hành nầy, có sức mạnh của dòng nước và chính là sức mạnh ấy.
Trong lúc ấy, Đỗ Hữu như đóng vai một làn gió của chất sầu, của mélancholie, như khói thuốc hòa với sương núi, như một người cô đơn nằm trong chòi tranh cũ, nhìn ra dặm về lá đổ phận tàn xiêu.
Đỗ Hữu coi bộ không thiết tha với ngôn ngữ đẻo gọt. Có cảm tưởng Đổ Hữu đã vượt qua sự kiện ông biết mình làm thơ. Xin đừng khinh những câu mộc mạc như: Buồn quá ngày đi đêm trở lại, hay Chiều nay gió thổi buồn ghê lắm. Hai câu ấy như hai hỏa tiển phóng hai vệ tinh vào không gian.

Buồn quá ngày đi đêm trở lại
Hoàng hôn hoa bản phấn rưng rưng

Chiều nay gió thổi buồn ghê lắm
Lá đổ sau chân một lối vàng.


Xin để các thân hữu tự nhiên thưởng thức mấy bài thơ. ttt


Phụ bản:
Tây Tiến
Quang Dũng 1948
Sông Mã xa ri Tây Tiến ơi
Nh v rng núi, nh chơi vơi
Sài Khao sương lp đoàn quân mi
Mường Lát hoa v trong đêm hơi
Dc lên khúc khuu dc thăm thm
Heo hút cn mây súng ngi tri
Ngàn thước lên cao ngàn thước xung
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bn dãi du không bước na
Gc lên súng mũ b quên đi!
Chiu chiu oai linh thác gm thét
Đêm đêm Mường Hch cp trêu ngươi
Nh ai Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Doanh tri bng lên hi đuc hoa
Kìa em xiêm áo t bao gi
Khèn lên man điu nàng e p
Nhc v Viên Chăn xây hn thơ.

Người đi Châu Mc chiu sương y
Có thy hn lau no bến b
Có nh dáng người trên đc mc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Tây Tiến đoàn binh không mc tóc
Quân xanh màu lá d oai hùm
Mt rng gi mng qua biên gii
Đêm mơ Hà Ni dáng kiu thơm
Ri rác biên cương m vin x
Chiến trường đi chng tiếc đi xanh
Áo bào thay chiếu anh v đt
Sông Mã gm lên khúc đc hành.

Tây Tiến người đi không hn ước
Đường lên thăm thm mt chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân y
Hn v Sm Na chng v xuôi.----





trên đất Lào

No comments:

Post a Comment