add this

Sunday, February 15, 2015

mùa xuân ly tan


01 Feb 1968, Hue, South Vietnam — Vietnamese Refugees
Fleeing -- 
Image by © Bettmann/CORBIS

mùa xuân ly tan
Phan Th Hip Thành

Vừa gặp người bạn cũ là Giới ở Việt Nam qua thăm. Bạn tôi là Lập Hoa rủ bạn bè lại chơi nói chuyện và kỷ niệm về Huế Mâu Thân sống dậy trong tôi.
Năm1968 khi ba tôi vừa từ Hoa Kỳ trở về Việt Nam sau những tháng dài đi tu nghiệp, nhà tôi đoàn tụ sum họp vào dịp Tết. Anh trai đầu của tôi vừa có con đầu lòng nên cũng đem về trình diện. Bé Minh Ngọc vừa được ba tháng rất xinh xắn, dễ thương mà anh tôi cho là giống cô Thành cũng được theo mẹ cha về thăm quê nội. Cả nhà thức khuya hơn hồi hôm nói chuyện, nên dậy trễ. Tuy nhiên má tôi dậy sớm đi tiểu, và khi ngó ra ngoài giếng thấy có người lạ múc nước má tôi yên lặng thức ba tôi dậy. Bà nói rất nhỏ trong cuống họng:
- Mình ơi dậy đi, có người chi lạ lắm đang mức nước giếng mình.
Tôi nghe rứa nên tò mò không ngủ nữa, rình dòm coai (xem) thử ai mà lạ rứa.
Người ni lạ quá, cả đời mình chưa thấy họ. Họ cũng tầm vóc như mình nhưng giọng nói của họ nghe lạ lắm, mình không biết được họ đang nói chi. Cách ăn mặc của họ cũng lạ nữa. Má tôi thức cả nhà dậy trong dấu hiệu đừng có làm ồn nên mọi người đều thức dậy mà không có tiếng ồn. Má tôi đóng các cửa sổ không cho ánh sáng lọt vào, thì trong nhà mình nhìn ra dễ hơn và họ không thể thấy được nhà mình nhiều hay ít người. Họ làm chi lạ quá. Mình nghe tiếng đào đất bên bụi hàng rào của mình. Cả nhà đang lúm xúm bên mấy cái khe cửa sổ quan sát. Có người vào lại trong giếng.
Má tôi người đàn bà can đảm, suốt đời lo cho chồng con, nói với ba tôi muốn đi ra gặp họ và hỏi cho biết họ là ai.
- Chào mẹ, chúng con từ phương xa đến không biết đường, xin mẹ cho miếng nước. Mẹ đào hầm tránh bom đạn Mỹ ngụy nhé.
Mẹ tôi đi vào, tay chân run lẩy bẩy. Bà nói rất nhỏ:
- VC vào tới đây rồi, tính răng đây. Họ nói giọng Nghệ An, Đồng Hới.
Má tôi đã có ít nhiều kinh nghiệm với VC từ niên thiếu nghe bà ngoại tôi kể lại nên bà sợ lắm. Má tôi ra dấu cho chúng tôi đi nấu cơm. Ba và anh tôi đang còn tìm làn sóng điện của của đài phát thanh Huế nhưng không được. Cuối cùng thì nghe lén được đài BBC.
Chúng tôi nhìn ra nhà cô Phán, thấy họ cũng có bên đó nữa. Ăn sáng xong, chúng tôi nghe có tiếng máy bay trực thăng và nghe có tiếng súng bắn, không phải của họ mà xa hơn. Không khí chiến tranh đang bao trùm khu vực Eo Bàu Thượng Thành nơi tôi đang ở. Nhìn qua nhà ông Chắc thường tưng bừng rộn rịp thợ thầy cũng thấy vắng hoe như chùa Bà Đanh. Nhà ông đại úy bên cạnh cũng im lìm lặng lẻ. Vài ngày sau, nhà mợ Cửu tản cư đến nhà tôi. Thằng con nuôi của mợ đang bị thương ở tay. Đây là một thằng bé khoảng năm hay sáu tuổi. Mợ cho biết vùng mợ ở đang bị đạn dữ lắm. Nhà mợ chỉ cách nhà tôi năm căn mà thôi.
 - Mình hè, chắc phải đi trốn bom đạn, ba tôi nói.
- Đi mô chừ. Nhà mình đông người, ai chứa cho. Thằng C. trong quân đội. Nhà mợ Cửu mới tới không lẽ mình bõ đi coai răng được. Thôi thì huy động lực lượng ra đào hầm đi, cho chắc chuyện, má tôi trả lời.
Nhà tôi đông anh chị em. Chỉ có anh đầu là con trai, còn một dọc năm con gái đang tuổi cập kệ. Đứa mô cũng là con gái 17 bẻ gãy sừng trâu hết, rồi một dọc mấy thằng em trai tuổi quá nhỏ để mà đi lính. Má tôi thường mong cho như là tạo hóa an bài sự bình an của gia đình mình.
Thế là chẳng ngại, tụi tui bắt tay vào việc liền lập tức. 19 người gồm hai gia đình. Phải đào cái hầm cho lớn mới chứa được 19 người. Qua ngày thứ hai, rồi thứ ba, cái hầm cũng lớn lần. Mỗi lần nghe tiếng máy bay gần đến thì chúng tôi ra hầm núp trốn. Có nhiều khi phải núp cả hơn một tiếng đồng hồ mà chưa ra được, lại còn mắc tè thiệt là phiền. Ngày thứ tư hay thứ năm chi đó thì có thêm một gia đình nào từ trên Thượng Thành xin vào nhà tôi tỵ nạn. Lần nầy tổng cọng là 24 người.  Họ xin vào vì nhà tôi có tấm bê tông rất kiên cố có thể tránh đạn. Thế mà chẳng yên, khi nằm trong hầm trốn đạn tôi tâm trí lại nghĩ bâng quơ. Nếu mình chết đi vì bom đạn thì người ấy sẽ như thê nào? Người ấy là người má giới thiệu, người ấy là người bạn của chị, người ấy là người bạn của mình. Tùm lum không biết người ấy là ai nữa. Và trong trí lại nghĩ: Nhưng không chết người trai khói lửa mà chết người em gái nhỏ hậu phương tuổi xuân thì....
Một buổi sáng má tôi cho biết gạo hết rồi, nếu cầm cự thì giỏi lắm là hai hay ba bữa nữa thôi. Trứng gà trong chuồng đã ăn hết và đã làm thịt hai con gà, còn lại năm con trong chuồn. Nếu mình ở lại thì chắc chết đói hết. Vã lại thằng con nuôi của mợ Cửu vết thương cũng bớt chút ít rồi. Cả xóm đã di tản mô rồi, chỉ còn lại nhà tôi . Tuy vậy chúng tôi vẫn chưa di tản. Tôi có mấy cái bao nhỏ đựng đồ cứu thương khi là đoàn viên trong đoàn cứu thương thời tranh đấu Phật Giáo, tôi đã dùng đựng gạo còn lại trong nhà và phát cho mỗi người hai lon mang theo mình. Mền chiếu cũng đã xếp sẵn trên hai đôi quang gánh. Mọi người ăn trong vội vã cơm và nước mắm, vì chẳng còn đồ ăn, mà sao ăn ngon qua. Thèm thêm một muỗng cơm nữa cũng không có ăn. Vừa dọn dẹp xong thì cây dừa nhà tôi bị đạn bắn nát, không còn một tàu lá. Lần nầy thì phải di tản thôi, không thể chần chờ. Chiếc trực thăng quần tới quần lui trên đọt cây dừa.
Lằn đạn vừa dứt, chúng tôi ra đi.
- Đi mô đó, dứng lại, bắn nè.
Chị V. lấn ra trước:
- Đây có người bị thương xin cho cho tải thương.
Thằng học trò của chị đang còn chút tình người, khoảng 15 tuổi nói rất nhỏ với chị:
- Đi mau lên.
Hắn đưa cây súng nhắm vào đoàn người, thình lình quay mặt đi nơi khác như không thấy.
Cả đoàn người tiến lên. Anh tôi giả đàn bà ôm con, đầu đội nón lá, mang áo mưa. Bà vợ người Nam nghe tiếng Huế chưa quen đang run cầm cập bước theo. Rồi mấy cậu em nho nhỏ đang lần lượt bước lên. Trên thân mỗi người có hai lon gạo mang theo. Chúng tôi mừng hú vía vì lọt qua được trạm canh gát và 24 người đi trong im lặng. Mấy chị tôi trên vai gồng gánh chiếu mền.
Vừa tới cửa Đông Ba trong thành nội thì cảnh tượng khác hẳn. Bên kia đường Mai Thúc Loan đường nhựa còn sạch sẽ, không bị ướt sình, đầy bùn như bên ni đường. À thì ra bom đạn đã phá hủy đường mà vì không kinh nghiệm mình không biết. Thấy cửa Đông Ba chúng tôi thẳng tiến không suy nghĩ đi ra cửa thành hướng về nhà bác tôi ở Đò Cồn. Qua khỏi cửa thành, đường cũng dơ và đây bùn tuy ít hơn, còn đoạn đường trong nhà tôi như là sau một cơn lụt, cây cối gãy đổ tơi bời bùn đất tùm lum. Tới nhà bác tôi khoảng hai hay ba giờ chiều chi đó, vì mình không có đồng hồ nên không biết.
Ngang qua phủ ông Án, thấy người ta đông lắm. Gần đó ở ngoài phủ cũng đông  người mình không biết lý do. Một hồi loa phóng thanh vang lên:
- Ai là cựu công chức, công an, cảnh sát, quân nhân, sinh viên học sinh từ 18 tuổi trở lên hãy ra trình diện cách mạng, chính phủ sẽ khoan hồng.
Tiếng loa cứ lập đi lập lại nghe hồi hộp lắm. Ba tôi và anh tôi trong diện đang bị kêu trên loa phóng thanh đó. Bác tôi nói với ba tôi:
- Chú với thằng C. ăn uống chi chưa. Ăn đi rồi ra trình diện, chính phủ họ nói khoan hồng cho mà.
Má tôi nghe rứa bà trả lời:
- Xin anh chị cho nghỉ đêm ni tại đây, mới ra trình diện cũng được, chứ mới tản cư ra đây, các cháu đang còn nhỏ.
- Thím nói rứa cũng được, bác tôi nói.
Tại nhà bác tôi không thấy không khí chiến tranh chi hết. Bác gái thì cũng đang xòe mấy con bài trên tay, chẳng biết là tứ sắc hay chi. Tôi không biết đánh nên thấy để mà thấy thôi chẳng hiểu gì, thấy bài có nhiều màu lắm.
Má tôi dặn chị tôi nấu cơm cho cả nhà ăn, má và chị V. đi có việc. Tâm tư mình cũng đang hoan mang, không lẽ đây là hậu cứ của VC. Chúng tôi dọn ăn trên một chiếc chiếu trải sau bếp nhà bác. Mình ăn uống xong rồi mà mấy tay đánh tứ sắc vẫn còn xoay ván bài chưa mãn. Tối đó không có điện, nên chúng tôi đi ngủ sớm. Vã lại mình cũng không muốn làm phiền bác, nên đi ngủ là tốt nhất.
Nửa đêm thức dậy, mình nghe tiếng đào đất. Nghe rõ lắm, đúng là tiếng đào đất. Giờ ni ai còn thức mà đào ri hè. Càng về khuya tiếng đào càng nghe rõ hơn nữa. Đúng 4 giờ sáng má tôi thức chúng tôi dậy và đi ra khỏi nhà bác. Tất cả mọi người đang ngủ say, chẳng ai nghe tiếng bước chân âm thầm của chúng tôi. Khi ra khỏi nhà bác, vì đang còn trong khu vực dân cư, chó sủa nên chúng tôi sợ lắm. Vừa đi vừa niệm Phật Quan Âm và bước thật nhẹ. Thỉnh thoảng có tiếng ai vọng ra "ai đó" rồi im, cũng nhờ vì trời đang mưa lâm thâm, lạnh lắm. Khi đi khỏi khu vực dân cư ở Đò Cồn, nhà cửa thưa thớt hơn, thỉnh thoảng một vài con chó sủa những âm thanh nghe cũng u hoài. Hai chị tôi cũng được phân công gánh chiếu mền theo, tôi được phân công nắm lấy tay cậu em út cho khỏi bị lạc. Mọi người một phen nữa, mang trên mình hai lon gạo. Căng thẳng trong đầu quá sức, tôi đi không nỗi, chân không nhúc nhích được. Cậu út lúc đó năm tuổi biết chị đi không nỗi đã mang gạo của tôi trên vai câu cho chị được nhẹ mà bước. Cậu đã kéo tôi trong im lặng, đẩy chị từng bước qua một qua khỏi vùng VC canh chừng. Má và chị V. đã hướng dẫn tụi tui đi và bây giờ đã qua khỏi Ô Hồ và đang đi sâu vào ruộng lúa. Mình thở dài nhẹ nhõm. Lúa cao che phủ ngang đầu, đi rất an toàn không còn sợ ai biết nữa, không còn sợ chó sủa nữa. Chúng tôi đã đi khỏi Bãi Dâu. Và đi. Và đi. Và chờ, chúng tôi đang tiến tới một vùng đất trọc cũng chẳng có nhà. Nhìn khoảng cát trống nầy lại rất sợ vì quá trống vắng, rất dễ bị lộ đoàn người của chúng tôi. Vừa đi, trời cũng vừa lờ mờ sáng, tuy vẫn còn trong nhá nhem của mưa phùn và gió lạnh. Má và chị dẫn chúng tôi đến một bến đò.  Chiếc đò quá nhỏ so với số người trên bến. Ông chủ đò không cho lên sợ chìm đò. Tôi đưa cậu em út lên ngồi vào lòng đò với ba má và anh tôi. Ông lái đò nói chỉ chở được một số người thôi, còn một số phải ở lại chờ chuyến sau. Khi đó tôi cũng không còn bình tĩnh để biết có ai trên đò, có ai không. Tôi la lớn:
- Hãy cầm vào thuyền mà bơi.
Các người con gái, tôi không nhớ rõ là ai, ít nhất cũng hai ba người con gái  nữa, cùng với tôi không biết bơi, cũng nắm vào mạn đò, tống chân trong nước, trong áo quấn ướt sủng để bơi qua sông, qua dòng sông định mệnh để vào bờ Mang Cá. Má và chị, hai người đàn bà can đảm hồi chiều qua đã đi tìm con đường nầy theo hướng bay của trực thăng và dẫn dắt gia đình đến chốn bình an.
Khi mình vào đây, một cảnh tượng đau lòng. Người ta ngồi đánh bạc quá sá, người ta ăn chơi ngày Tết chẳng biết là VC đang kề bênh nách. Họ chẳng biết trong gang tay của họ đang có chiến tranh. Họ chẳng biết là Eo Bầu Thượng Thành đang bị lửa đạn, hay họ có biết mà giả lờ như không biết .
Lúc đầu gia đình tôi định tá túc nhà ông bà Đốc Thước, nhưng đến nơi ba tôi có một người bà con là chị Bếp Liên, nên gia đình tôi vào tá túc nhà anh chị. Khi có tin có tàu xà lang đổ bộ chở người vào Đà Nẵng gia đình anh tôi và hai chị giả từ để vào lại Saigon đem theo cậu em trai lớn. Anh chị Bếp Liên rất tốt, cho chúng tôi ở nhà cả hơn tháng trời.  Mệ tôi có bà sui gia hụt là ông bà Đốc Thước cũng rất tốt, ngày ngày đem gạo qua tiếp tế cho gia đình tôi. Chi V. ở lại với bầy em nhỏ và ba má tôi. Tục ngữ mình nói: Nước loạn mới biết tôi trung; Gia bần mới biết con có hiếu.
Chị V. tôi trong mọi hoàn cảnh đã lo lắng cho mấy em và cha mẹ tôi rất nhiều. Đúng là một chị cả thương em.
Khi có tin Nội Thành được giải phóng, chúng tôi mừng quá, trở về thăm. Cờ bay tưng bừng tên thành phố thân yêu vừa chiếm lại hôm qua bằng máu.
Nhìn ngọn cờ vàng bay trên đĩnh kỳ đài Ngọ Môn tôi khóc quá chừng. Tôi không ngờ chiến tranh đã tàn phá cố đô Huế đến hầu như 100%.
Tôi đã đi về nhà, đi với ai tôi không nhớ nữa. Chỉ nhớ là khi đi qua đường ngã Gia Hội thì thấy vàng bạc rơi rớt trên sàng nhà sau mấy lớp cửa sắt. Trên đĩnh cửa Đông Ba, một người lính VC chết nhào xuống, chân đang còn xích vào với khẩu súng đại bác. Vài cái xác chết trên đường đã thình lên, to hơn cả cái bàn. Mèo chó chết cũng phình trương lên rất lớn. Mùi hôi kinh tởm bốc xông cả vùng nội thành. Hố bom thật sâu và rộng đã choáng hết một phần con đường Nhà Thương Nhỏ. Tôi đi trong kinh hoàn. Vũ trụ như sập tan trong mắt tôi. Còn gì là cuộc đời. Sống để làm gì với những vết thương hằn xé như thế nầy. Tuổi trẻ nhiều ước vọng còn gì nữa đâu.  Đầu óc đang chứa nhiều đau khổ, đang lo sợ, tâm cang đang quằn quại, thì một bàn tay đặt trên vai tôi. Tôi hét lên thật lớn ví quá đau khổ thấy cảnh tương tàn, không biết là người hay ma đang bóp cổ mình đây. Hét lên cũng vì sợ. Hét lên cũng vì đời dã man. Tôi nghe một tiếng nói bên tai:
- Moa vào coi nhà Hiệp Thành có bị chi không, vì thấy vùng nầy bị nặng quá.
- Bị chừ làm răng mà khoải được.
Công đi yên lặng bên tôi, chịu cũng chẳng biết an ủi bằng như thế nào trong hoàn cảnh nầy, chi bằng yên lặng là hơn. Công là người bạn thân của tôi tử nhỏ, chúng tôi cùng đi hướng đạo và cũng có ý hướng giúp đời nên tư tưởng có nhiều điểm tương đồng.
- Công biết không moa đi một mình sợ quá, qua mấy cái xác tê, sợ muốn chết may có Công có bạn cùng đi. Nì, mà răng Công lại đi vô đây?
Tôi hỏi bạn lạt nhách. Công đã nói là vô nhà tôi từ đầu rồi mà. Đi một khoản khá xa, vì đường đi có nhiều chướng ngại, như bùn đất dính đầy trên đôi guốc khó lòng mà nhấc lên, cây cối gãy đổ giữa đường, hầm mìn chắn hết lối đi, thành ra nhọc nhằn lắm mới tới được nhà.......
Đến nơi, ba má tôi đã đến trước. Tôi thấy má tôi đã khóc. Căn nhà thân yêu của ba má tôi đã sập hoàn toàn phần trên, chỗ chúng tôi làm hầm nổi ba má tôi xây thêm về sau vẫn còn nhưng rất nhiều vết đạn, mùi hôi của xác chết làm tôi nhức đầu.
- Chớ mình tính răng má hè?
- Thôi con đi về đi, má với ba về sau. Để coai xem thử ra răng đã. Chắc mình chưa dọn về được mô.
Tôi xây xẩm mặt mày vì mùi hôi của xác chết bị sình thúi, nên chào ba tôi mà đi .
Đến nhà Công, tôi chào hai bác và bác gái bảo tôi đi ăn. Người tôi lấm đầy bùn đất. Nhà Công cũng đầy người tỵ nạn như nhà tôi trước khi chạy giặc. Ông là đại tá quân đội và quá tốt. Lòng tốt nầy tôi khắc khoải ghi tạc hoài mà trong bài thơ "Bát cơm Mậu Thân" cũng đã ghi lại một ơn nghĩa không quên của đời mình.
Vài ba ngày sau ba má tôi hồi cư trở về để dọn dẹp nhà. Năm con gà nằm chết trong chuồn. Con mèo cùng tuổi với tôi cũng đi đâu mất tích. Phải dọn dẹp mấy tháng trời đống gạch vụn lớn với hai bàn tay trần như không bao giờ xong. Về sau ba tôi nhờ một người cháu rể là đại tá Thiện dùng xe cần trục lớn, dọn đi đống gạch sập của căn nhà. Đêm đêm tới nửa khuya khi đang ngồi học dưới ánh đèn dầu leo lét, tôi lại nghe tiếng rên hì hì. Tôi sợ quá và tôi tắt đèn đi ngủ. Tôi không biết tiếng rên đó là của người sống hay người chết. Tiếng đó tôi nghe hoài, luôn cả tháng trời chưa dứt, và phải nửa đêm mới nghe khi đêm về khuya thanh vắng.
Cầu Trường Tiền trong dịp giặc gãy một nhịp. Trường đại học y khoa Huế đã dọn tạm vào Saigon và tôi cũng không gặp Công nữa. Về sau khi đi học qua cầu tôi gặp Công về thăm Huế và chẳng bao lâu Công có vợ người Saigon. Đó là lần cuối cùng tôi gặp ân nhân của tôi.
Đò Cồn, Bãi Dâu, những tiếng đào đất mà ban đêm khi di tản đến nhà bác, tôi đã nghe phải chăng đó là tiếng đào của những ngôi mồ tập thể, của những chiếc khăn tang của Huế về sau.
Má và chị V. đã sáng suốt không để cho ba và anh tôi ra trình diện. Anh chị Bếp Liên một đời ân nghĩa, tôi cũng không gặp được trong dịp về thăm VN lần trước. Ông bà Đốc Thước, một đời ân nghĩa cũng không gặp lại được thì đã qui tiên.
Ôi một thành phố, nhà không vườn trống, một định mệnh, một cây cầu gãy, một chiến tranh tương tàn, tất cả để làm gì? Tại sao không mang hạnh phúc cho người mà chuốt lấy thương đau. Không có công tạo dựng, xin đừng gây tương tàn.
37 năm qua. Người còn kẻ mất, một xót xa đau đớn như đã quên lãng trong tôi bỗng hiện về. Tôi chỉ có thể nói với mình chiến tranh tàn ác, tại sao có người thích chiến tranh và ủng hộ người nuôi dưỡng chiến tranh, trong khi mình không tạo dựng được hạnh phúc cho người. Hãy ban phát tình thương với người như thương chính mình vậy. Và mong mọi người có mùa xuân an bình chứ không phải mùa xuân ly tan như Mậu Thân.-
Phan Th Hip Thành
tháng ba Mùa Xuân 2005 Ất Dậu

Vài câu của người đăng tải
Vào dịp xuân Canh Dần 2010 tôi nhận được qua email một tập tự truyện của Phan Thị Hiệp Thành viết năm năm trước 2005 nhưng không đọc được vì 90% là mã số nhưng tôi biết bài nói về Tết Mậu Thân Huế. Tôi đã lần mò viết ra như trên và gởi lại cho người gởi.
Người gởi không ai khác hơn là bạn Tôn Thât Để mà tôi thường gọi là hoàng thân Vỹ Dạ. Nói vậy cũng không quá lắm, tuy không thuộc nhóm Hường Ưng Bửu Vĩnh…,chàng là hậu duệ của cụ Tôn Thất Hân, nhiếp chánh vương khi vua Bảo Đại du học bên Tây thì cụ cố cũng là vua vậy. Nói cho vui thế thôi nhưng lý do chính là thân sinh của Để và hai em đã bị giết trongTết Mâu Thân, cùng rất nhiều người khác trong đại gia đình.
Ít khi tôi đọc được một ký sự về Huế mà người viết là chứng nhân tận mắt (eye witness, témoin à yeux) cho thấy cán binh VC bị xiềng vào cây súng. Phan Thị Hiệp Thành (PTHT) một trong những người trở về sớm nhất, đã thấy; một cái thấy bằng mấy chục lời nghe kể lại.
Cũng con mắt ấy của PTHT đã thấy sự khác biệt giữa hai thái độ dân Huế, một bên thì cứ đánh bài và ăn Tết vui say. Tháng giêng là tháng ăn chơi; một bên thì hốt hoảng đối diện với cái chết ngay lưng; cái chết từ súng đạn và cái chết từ chỉ điểm và muôn ngàn thứ khác.
Bậy quá. Giá như nhà bình luận Tôn Nữ Hoàng Hoa (TNHH) mà đọc được bài nầy của PTHT thì đỡ mất công cho bà và độc giả. Cô Tôn Houston đã tốn thì giờ giấy mực và năng lực tinh thần để chứng minh tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn không thể làm cái việc do chính ông nói là trong tết Mậu Thân ông và người yêu dìu nhau đi từng bước bên bờ sông An Cựu. Vị nữ lưu con cháu nhà Nguyễn nầy quả quyết không thể có được khi Huế trầm mình trong chiến tranh, súng đạn như mưa, mà dù không có chiến tranh tại chỗ ở, làm sao có lòng dạ mà du xuân.
TNHH suy bụng ta ra bụng người, lòng dạ người ta đâu có phải là lòng dạ của mình. Lòng dạ PTHT không phải là lòng dạ của gia đình người bác ở phía Cồn Hến. Bác gái thì cứ xòe bài nhiều màu (tứ sắc?), bác trai thì bình thản bảo cha và anh nàng ra trình diện ngay để được khoan hồng; PTHT nghĩ đấy là hậu cần VC. Một bên là đau khổ một bên là hân hoan.
Ai cấm vị tiến sĩ số một của Huế du xuân bên cạnh người yêu. Tiếng súng? Lập trường chính trị? Lương tâm? Cái huệ, cái logique, cái “should be” của TNHH cần được thay thế bởi cái nhìn trực tiếp của PTHT, đơn giản và thấm thấu.
Trước đấy, người xứ Liễu Hạ, cũng đã phải rất dài dòng chứng minh mình không phải là CS khi một người tên Phi đã cho biết Trần đại nhân đã đứng trên bục (sân khấu) làm bằng những tấm ri sắt (ở bãi đáp phi cơ dả chiến) mà ông phải gánh còng lưng; Trần đại nhân ra chỉ thị huấn lệnh, đầu đội nón cối và hông mang xác cốt. Bài tự biện hộ có đoạn nhà Phật Học nầy (được bốc thơm thành Long Thụ tái thế) nói gần như ri: tui mà CS à?! Con gái tui, hai đứa chứ không phải một đứa, theo đạo Thiên Chúa và lấy chồng là con của Cần Lao gộc ở Quảng Trị; mần răng mà tui thành CS, noái hiện ngụy chơ.
Rồi tiếp đến có người làm môt việc rất đơn giản (tuy sự đơn giản nầy khác với PTHT), Bên Thắng Cuộc đã ghi ngắn gọn Trần Kiêm Đoàn là bí thư đảng ủy tại trường Nguyễn Tri Phương Huế. Tác giả Huy Đức e chừng vì ngủ trong chăn mà biết chăn có rận. Ở một chỗ khác, cách nay chín năm, Nguyễn Trương Thiên Lý (tức là Trần Bạch Đằng) đã kê một sớ dài tên các văn nghệ sĩ và các tờ báo đã có công đóng góp cho CSVN, trong đó có Trần Kiêm Đoàn, cũng ngắn gọn không kém. Tôn Nữ Hoàng Hoa thua là thua chỗ nớ, đứng ngoài dòm vô.  ttt

Ngày 27 cuối năm Ngựa sắp qua năm Dê, nấu xong nồi bánh Tét ngoài trời và được phép ăn tươi nuốt sống ngay, thơm mùi lá chuối và lá sen; nước mưa và củi rừng làm bánh dẻo như kẹo kéo.


No comments:

Post a Comment