add this

Sunday, June 1, 2025

từ Jerusalem đến Rome

 

Sword Cross, Lisbon, Portugal


từ Jerusalem đến Rome 

Tôn Tht Tuệ . 2014 


Câu hỏi của anh… nhắc tôi rằng hiểu biết về Thiên Chúa Giáo (TCG) rất cần thiết để hiểu biết hầu như mọi điều. Từ nhạc cổ điển với Bach, Mozart, từ việc Hitler sát hại người Do Thái… cho đến sự hình thành của Cộng sản quốc tế, cho đến các thuộc địa, cho đến các cuộc thánh chiến. Nói chung là những gì, những nơi, những thời có dính líu ít nhiều đến Tây phương; mà Tây phương gồm cả Liên Sô như Virgil Gheorghiu lưu ý.
Câu hỏi nầy nằm trong khoảng 400 năm đầu của TCG. Sự hiểu biết của tôi không đủ để diễn tả phần thần học được cấu tạo từ ngày Jesus qua đời. Tôi chỉ nêu vài nét lịch sử.
Do Thái (DT) là nơi mang tính chất chính trị - địa dư (geopolitic) sâu đậm nhất. Nó không những nằm trên ngã ba mà ngã tám ngã mười. Ngay trong huyền sử Thánh Kinh, khi Abraham bỏ đời sống du mục du canh và ngừng bước ở nơi sau nầy là Palestine /Do Thái, ông đã phải đương đầu với người Philistine có trước. Thay vua đổi chủ cứ luân diễn. Đến thời tiền sử, cận sử, DT và các nước nhỏ xung quanh là con đường chung của các cường quốc như Ai Cập, Ba Tư, Hy Lạp, La Mã; là bến tàu của Địa Trung Hải và cả Hắc Hải.
Hai anh hùng thủy bộ Hy Lạp và La Mã cũng giành dựt nhau, đồng thời để lại văn minh La Hy. Jesus ra đời khi La Mã đô hộ về chính trị nhưng Hy Lạp tiếp tục ảnh hưởng văn hóa, bên cạnh sự thoái hóa của Do Thái Giáo (DTG). Bối cảnh ấy ảnh hưởng cuộc đời và tôn giáo của Jesus.

Qua nhiều biến cố, các địa danh phức tạp nên tạm nói chung là vùng Judea rộng lớn. Jesus sinh ở Nazareth trong quản hạt nầy, một tỉnh của đế quốc La Mã. Người cha làm thợ mộc. Ông cũng theo nghề nầy, đồng thời thuyết giảng điều sau nầy người ta gọi là Phúc Âm, chính yếu kêu gọi tình thương. Xã hội nhiễu nhương, các vua chúa La Mã tàn ác như cho người đấu với cọp, khi không kịp đem mồi từ nhà giam, thì vua bắt vài quần thần bên cạnh xô xuống hầm thú coi chơi đỡ buồn. Hai lớp người độc ác bên cạnh người dân là các tăng lữ cúng tế sát sanh và bọn cho vay nặng lãi. DTG chỉ còn là xác phàm như xơ mướp.
Jesus không làm điều hậu thế rùm ben bốc thơm là cách mạng. Ông chỉ muốn DTG không chết chìm trong những nghi lễ vô duyên; nhiều điều hư vọng đã nhảy vào đầu óc của tăng lữ gây nguy khốn cho tín đồ, nghĩa là mọi người; cần tẩy sạch những tà kiến nầy. Biển khổ trước mắt tạo cho ông những thức tĩnh triết học. Khác với những nhà cách mạng bạo động, ông muốn xây dựng công bằng xã hội đặt trên gốc là tâm, là tình thương, đồng thời nuôi dưỡng ước mơ chung là có một đấng cứu thế ra đời, một ý niệm đã có từ lâu, đời nầy qua đời nọ. Ông nói đến “Vương Quốc của Cha ta” để làm nơi đến của mọi người, và đi đến bằng tình thương và hướng thượng.
Rừng tư tưởng trong vùng đầy rẫy những học thuyết trừu tượng, ngay cả Phật giáo từ Ấn đem qua cũng không thiết thực nên không hấp dẫn. Trong lúc ấy, lời rao giảng của Jesus đầy tính cách kêu gọi, đầy trực giác, hướng thẳng vào người nghe. Số người theo rất đông. 12 đệ tử thân cận gọi là tông đồ.
Sau ba năm dùi đánh đục đục đánh săn, Jesus cùng các tông đồ đi từng làng một, xuyên qua Palestine để truyền bá tư tưởng mới. Ông tiếp tục vào Jerusalem. Theo Thánh Kinh Do Thái, Jerusalem là vùng đất bên cạnh Palestine được vua David, cháu chắc mấy mươi đời của Abraham, chọn làm đất thánh một ngàn năm trước tây lịch. Ông cũng bị đóng đinh ở chỗ nầy.
Đến đất thánh, Jesus được hoan nghênh nồng nhiệt. Nhưng sau đó, dân chúng ruồng bỏ ông; vì ông không chịu làm người hùng lãnh đạo phong trào chính trị, khôi phục chủ quyền trong tay La Mã. Kẻ thù của ông xuất hiện. Đó là các nhóm thầy cúng chủ trương giết súc vật cúng thần linh và nhóm cho vay cắt cổ.
Chúng đưa ông ra giáo tòa Senhedrin về tội phỉ báng Thượng Đế bằng cách tự xưng là con của Ngài.
DTG (và Hồi giáo về sau) không chấp nhận sự phân đôi Thượng Đế thành Chúa Cha và Chúa Con. Tòa kết án tử hình, trình chính quyền La Mã xin duyệt y và thi hành bằng cách vu khống ông xưng là vua của người DT. Toàn quyền Pointus Pilates ra lệnh xử tử vì phá hoại nền cai trị La Mã. Về cái chết nầy, nhiều sử gia không biết hay bỏ qua giáo tòa nầy mà chỉ nói đế quốc La Mã phải trừ diệt hậu hoạn. Kỳ thật cả kẻ bị trị lẫn kẻ thống trị đều muốn Jesus chết.

Những tín đồ đầu tiên của Jesus là người Do Thái. Sau khi sư phụ chết, họ vẫn ở lại Jerusalem cùng hành đạo với người địa phương tại Đền Thánh. Họ không có một danh xưng riêng, âm thầm thành một giáo đoàn (assembly) như một hệ phái, chỉ khác ở một điểm là họ tin Đấng Cứu Thế đã xuất hiện. Họ được để yên cho đến khi họ la to rằng Jesus là đấng cứu thế mà dân DT mong chờ mấy ngàn mấy trăm năm nay. Người DT bắt đầu kỳ thị thanh trừng họ. Tuy gặp khó khăn họ không ra khỏi những tín điều của DTG và không ra khỏi quốc gia Israel.
Nhưng mọi sự đã thay đổi cùng cực với sự xuất hiện của một người tên Saul. Saul người DT cứng cỏi, thích thanh trừng môn đệ của Jesus, đã trở đạo và mang tên mới là Paul, là Saint Paul về sau.
Paul là một học giả. Ông đã dùng chữ Hy Lạp Christo, đấng cứu thế, để cho Jesus cái tên đôi là Jesus Christ. Do ngữ căn nầy mà có những chữ như Chúa Ki Tô, christian, christianism, chrétien, con chiên….Paul mở đầu sứ mạng mới là đem TCG đến các người không phải là DT. Ông nêu ra các vấn đề thần học.
Ông nói người christian không tội gì phải thành tín đồ DT; không thể được cứu rỗi bằng những điều luật thành văn hay truyền khẩu của DTG. Chỉ cần tin Jesus Christ là đủ.
Với chủ trương lý thuyết của Paul nêu trên,TCG hoàn toàn cắt đứt khỏi nguồn gốc xưa (DTG). Sự đoạn tuyệt nầy còn bị đậm nét bởi hai sự kiện như sau.
Thứ nhất là sự bất mãn trước luận thuyết cho rằng DTG chỉ là sự sửa soạn lót đường cho TCG xuất hiện. Thứ đến là năm 70 TCG dùng đường Jordan trốn chạy qua Hy Lạp tránh nhiệm vụ chống La Mã, cũng như không ủng hộ hai cuộc nổi dậy đòi độc lập năm 115 và 132.
Nhưng TCG vẫn được xem và tự xem là một trong ba tôn giáo Abrahamic bên cạnh DT và Hồi Giáo. Ngoài việc lấy Thánh Kinh là nguồn gốc, dân tộc DT còn cho mình là con cháu (nghĩa đen, sinh học) của ông Bành Tổ Abraham. Mahommed tự cho là thuộc dòng máu từ Ismael, con của Abraham và cô tỳ nữ (servant). Jesus nằm trong phả hệ của vua David, bà con bên mẹ. Hồng Y Nguyễn Văn Thuận cũng nói rõ Jesus thụ nhận nét tinh anh của vua nầy.
Tôi có dự một buổi giảng đạo của một mục sư Tin Lành. Sau nhiều câu hỏi khó trả lời, ông nói quý vị hãy bỏ cái chuyện Cựu Ước, Cựu Ước là lịch sử của dân DT. Tin Lành chỉ y cứ vào Tân Ước. Roman Catholic có catechisme riêng, không kể Tân hay Cựu Ước. Lời nầy còn nhiều thiếu sót, trả lời tránh né.
Tuy Paul mong muốn truyền bá xa hơn biên giới DT, dân của xứ nầy đã cung cấp rất nhiều tín đồ cho Paul lúc khởi sự. Những tín hữu TCG gốc DT cùng chung dân tộc phải rời Israel trong lần xua đuổi cuối ra khỏi quê cha năm 138 khi cuộc tranh đấu độc lập thất bại và vua Hadrian hủy bỏ tính cách thiêng liêng của Jerusalem, đổi tên nước thành Syria Palestina.
Người DT lưu vong kết tụ với nhau thành những nhóm lớn nhỏ gọi là diaspora. Phần lớn sống trong đế quốc La Mã và những phần còn lại của Judea bên ngoài Jerusalem. Người DT và chính quyền La Mã hiểu ngầm với nhau rằng chuyện phục quốc là vô vọng. La mã nới rộng phần nào chính sách cai trị. Phía DT họ điều chỉnh việc hành đạo qua hình thức mới: DTG rabbinic. Đường lối nầy không coi trọng việc đến lễ tại Đền Thánh Jerusalem, vì nào có được phép đến. DTG nay không lệ thuộc vào tăng lữ, vào Đền Thánh, đồng thời không cần một giới đàn trung ương khác phải xây thêm. Nghi lễ cúng tế và sát sanh được thay thế bởi học tập qua sự diễn giải của các đạo sĩ (rabbin), triết gia hay luận sĩ..
Trái với sôi động mấy chục năm trước phải đấu tranh giành độc lập, nay giới chủ trương rabbinic rất ôn hòa về chính trị và tạo nên đường dây liên lạc duy nhất trong xã hội DT. Chủ trương nầy đại diện quyền lợi cả hai bên. La Mã thỏa mãn với tầng lớp nép mình nầy và hy vọng số nầy làm cho giới lãnh đạo và giáo hữu chấp nhận nền trật tự được La mã sắp xếp (Pax  Romana). Người DT hưởng cơ hội thuận tiện để tiếp tục sự tự quản và không có ai xâm lấn vào sự hành đạo.
Trong khi người DT tạm ổn trên đường lưu vong, thì khối TCG, trái lại, bị La Mã thanh trừng kỳ thị. Điều nầy rất nghịch thường. DT trước kia gây thiệt hại cho La Mã như khủng bố, không chịu đóng thuế, nay được La Mã ưu ái. TCG lại gặp nạn tuy đã nhiều lần không chịu tham gia chống đối, không chịu tham gia chính sách bài trừ ngoại bang.
Trong 138 năm trước khi phải ra khỏi nước chung với mọi người, TCG vẫn phải đối đầu với ác cảm của DT nhưng không có những cuộc thanh trừng từng loạt. Nhiều nhóm nổi dậy như Assassin, Zealot thẳng tay sát hại kẻ cọng tác với La Mã, nhóm tiên phong Rabbinic. Sử liệu cho thấy TCG không nồng nhiệt trong phong trào độc lập, cho nên có sách nói nhiều môn đệ TCG là nạn nhân. Nhưng nếu đúng thì vì lý do chính trị. Như mọi hiện trạng khác trong lịch sử tôn giáo các nơi, việc thanh trừng TCG dựa trên một mớ nguyên nhân nằm dưới nguyên nhân ý thức hệ bên ngoài: TCG không tôn thờ các vua La Mã mà tôn thờ Jesus, không yêu nước.  Người DT đã thành một tầng lớp phủ phục, thân thiện và phục vụ cho La Mã; rất có thể họ đốc thúc nhà cầm quyền diệt trừ nhóm TCG. 12 tông đồ đã có 10 người tử đạo (Juda tự tử và John bạo bệnh).

Câu hỏi của anh Tân đáng lẽ chỉ trả lời bởi một câu trong Tân Ước: “And so we came to Rome” (Acts 28:14). Tôi nghĩ anh muốn nói cái Rome với đền đài nguy nga cho nên mới kèm gần bốn trăm năm đa sự.
Tuy sau nầy chết vì toàn quyền Pilate, Jesus không chịu lãnh đạo cuộc võ trang chống ngoại xâm, vì quan niệm triết lý của ông.  Khi không thể lặn sâu mãi, từ khi Saul xuất hiện, TCG đã âm thầm ra khỏi biên giới DT để vào những vùng khác của đế quốc La Mã. Rome trong câu nói trên không nhất thiết là Rome trong nghĩa hẹp. Dẫu vậy, thủ đô bao giờ cũng hấp dẫn và dễ thở. (Sau 75, thân nhân ngoài bắc vào khuyên nên bám vào thành phố ít kềm kẹp hơn nông thôn). Song song với việc di cư nầy là sự hệ thống hóa các điều gọi là chân truyền từ Jesus hay các tông đồ. Tân Ước nói đến một giáo hội Rome. Giáo hội theo nghĩa chính thì ba người là đủ thành hình, giáo hội, giáo đoàn, church assembly, congregation.
Có thể tưởng tượng người DT theo TCG cũng phải sống thành những diaspora. Nếu diasporas thuần túy DT được nối kết với nhau qua giáo lý và các đạo sĩ (đường lối rabbinic), các diasporas theo TCG, gốc DT hay không, được móc nối bởi giáo lý mới. Nếu họ theo kiểu Rabbinic của đồng hương thì không cần một giới đàn trung ương, giáo hội không giáo đường. Tôi không có tài liệu mô tả sự hành đạo trong thời gian phôi thai của TCG. Nhưng không thể rềnh rang hào nhoáng vì đang bị đàn áp. Theo tài liệu hằng năm của Romana Curia, giáo hoàng (giám mục Rome) đầu tiên là tông đồ Peter (Pierre, Phê Rô, Petrus, Pedro) tại vị từ năm 33 đến 64 khi tử đạo. (Theo Tân Ước Mathieu, Peter được Jesus trao cho chìa khóa cửa vào Nước Trời. Trong lúc ấy Discovery TV nói Peter trả lời không biết Jesus là ai khi chính quyền La Mã hỏi trong vụ xét xử Jesus). Tính đến ngày TCG thành quốc giáo, 11 trong 30 người kế vị Peter đã tử đạo.
Người DT đã nhiều lần bị đuổi ra khỏi nước và sống khắp đế quốc. Lớp cũ nay theo đạo nhập chung với người mới làm cho giáo hội đông thêm để truyền bá rộng rãi hơn. Vì thiếu người, quân đội vẫn tuyển giáo dân như vua Marcus Aurellius, và nhân dịp thắng trận ông đã bỏ lệnh đàn áp. Việc hủy bỏ không thành luật nên các vua sau vẫn duy trì.
Lúc TCG ra đời, đã có nhiều tôn giáo khác hoạt động bên cạnh nhau. Đế quốc nầy chưa có chính sách đàn áp bất cứ tín ngưỡng nào. Nhưng nay lại kỳ thị tôn giáo mới. Cho dù bị gọi là Tào Tháo, người đọc sử có thể nghi vấn về bàn tay của người DT, lớp người phục vụ La Mã. Chỉ có TCG tấn công nền tảng của DTG bằng cách không công nhận khả năng cứu rỗi của luật có từ thời Moise (Moser). Đế quốc La Mã không thống nhất, trừ vài giai đoạn ngắn, luôn có ít nhất hai hoàng đế và các lãnh chúa vùng; thiện cảm ác cảm khác nhau dành cho tôn giáo nầy. Do đó, TCG phát triển không đồng đều nhưng nói chung là có tăng trưởng.

 
Tăng trưởng để vượt qua các cuộc đàn áp và có ảnh hưởng với chính quyền. Hơn ba thế kỷ đen tối đã cáo chung bởi việc TCG được hoàng đế Constantine chấp nhận bao dung. Nhưng cần biết không phải tự nhiên nhà vua ban thưởng mà không có sự đóng góp của người thụ ân. Vã lại tiền nhiệm của Constantine đã hủy lệnh bài trừ.
Vua Galerius đã ký lệnh hủy thanh trừng năm 311 ít lâu trước khi chết. Con rễ Maxentius, vua Rome, nhờ vậy được sự ủng hộ của cộng đồng TCG để đổi lấy giấy phép bầu giám mục Rome (giáo hoàng) mới là Eusebius. Eusebius giữ ngôi vị nầy trong 4 tháng trước khi bị vua giải nhiệm. Nhưng dẫu sau Maxentius cũng giữ được Bắc Ý trong tham vọng tranh bá đồ vương.
Trong chiến cuộc diệt trừ “sứ quân” Constantine, nhà vua không biết “phe ta” đã trở cờ qua phe địch. Eusebius tuyên truyền rằng Constantine, vua cõi Tây Ban Nha, thấy lúc gần trưa từ mặt trời xuất hiện một thánh giá với các hàng chữ Hy Lạp, dịch qua La tinh là In hoc signo, vinces (nhờ dấu hiệu nầy mà chiến thắng). Giáo hoàng còn đưa ra nhiều huyền thuyết khác như mặt trời chiếu nhiều hình là chữ Hy Lạp hàm ý Chúa Christ sẽ đưa Constantine lên ngôi. Cuộc thư hùng xẩy ra mùa hè năm 311; ngày 29.10 Constantine vào Rome giữa tiếng hoan hô của giáo dân. Xác Maxentius chết trôi được vớt lên chặt đầu đem đi khắp thành phố cho dân xem trước khi gởi qua Carthage hăm dọa chủ tướng khu vực nầy.
Hai năm sau, 313, Constantine họp với vua Licinius ở Milan cùng ký Sắc Lệnh Milan tuyên bố bao dung toàn diện cho TCG và tất cả tôn giáo khác trong đế quốc; tuy nhiên văn kiện nầy qui định nhiều đặc lợi cho TCG như trả lại tài sản bị tịch thu, bỏ tội truyền đạo…

Constantine là một hoàng đế tàn ác. Tàn ác đối với cả vợ con. Để giải quyết việc truyền ngôi theo ý riêng, tháng 5, 326 ông đã giết con trưởng Crispus sinh bởi bà vợ trước. Qua đến tháng bảy, theo sự hối thúc của mẹ, ông giết hoàng hậu Fausta bằng nước sôi khi bà đang tắm. Cho đến ngày nay không một tác giả nào đồng ý với Constantine rằng hai nạn nhân đã tư thông bất chính. Giết thêm vợ chỉ để che lấp vụ giết con. Tên tuổi của họ trên các đền, bia đều bị đục bỏ, giáo hoàng Eusebius đã sửa sách vở cho đúng với thánh ý. Về sau ông còn giết cháu, con em ruột là Constantina mà ông đã gả bán trong mưu đồ chính trị.
Ông đã tiên phong trong ngành tuyên truyền, tạo cho mình một hình ảnh đẹp vừa thế tục vừa thần thánh. Ông đã dùng nhiều phương tiện bên cạnh quân sự để chiếm và giữ đế quốc; do đó những phát giác gọi là mới về hai mặt dính liền của chiến tranh (quân sự / chính trị) đã có từ lâu. Ông đã đi trước trong chuyện viết lại lịch sử, bốc thơm thằng nầy, bốc thối con kia, nhan nhãn quanh ta, mới hôm qua, hôm kia.
Constantine đã làm cho đế quốc La Mã thay đổi sâu đậm: tôn vinh vai trò của TCG, hủy bỏ hệ thống cai trị bởi nhiều hoàng đế và tiểu vương, thống nhất hai vùng đông và tây. Ông đã xây kinh đô mới tại Istambul ngày nay. Constantinople là cái yết hầu, là chỗ nối nhau của Địa Trung Hải và Hắc Hải, là cây cầu giữa Âu Châu và Á Châu. Như một tâm điểm của một vòng tròn chạy qua Nga, Ấn Độ, Iran, Hồng Hải, Tây Âu. Nói khác từ đây đi tắt rất thuận tiện.
[Lực lượng hải quân Nga (và Liên Sô lúc trước) hùng cứ quanh đây. 2013, Nga đã chiếm lại bán đảo Crimea bên kia bờ Hắc Hải trông qua Istambul]. Các nhà chiến lược Mỹ tin rằng nếu Liên Sô đánh chiếm cả thế giới thì Moscou xuống chiếm Thổ Nhĩ Kỳ trước, chứ không phải là Paris, rồi từ đây nhảy vô Âu Châu. Thổ đã chấp nhận lý thuyết nầy nên năm 1964 chấp nhận không can thiệp vào đảo Cyprus để được núp dưới cây dù hạch nhân của Mỹ).
Chiến lược gia Constantine thấy Ý dễ bị nguy khổn. Nếu có lực lượng mới xuất hiện ở Ai Cập thì họ sẽ vượt biển đánh chiếm rất dễ. Về thực tế, phía bắc đế quốc có những dân tộc gọi là barbarian như Goth, Germanic hiếu chiến và thiện chiến. Thật vậy, 200 năm sau khi ông chết, miền Tây đã bị nhóm nầy chiếm. Phía Đông nhiều lần muốn hưng binh cứu người anh em (sic) nhưng không thành.
Constantine chấm dứt lối cai trị tập thể khi triệt hạ hoàng đế phía Đông Licinius để thống nhất. Ghi nhớ: đế quốc quá rộng khó kiểm soát nên Diocletin chia làm hai, chỉ cai trị phía đông và giao phần kia cho một người bạn. Nay Constantine gộp chung. Sau kỳ thống nhất nầy, đế quốc lại chia đôi cho hai con của vua Theodosius. Khi miền Tây bị tiêu diệt bởi các rợ, thì miền đông còn đứng vững nhờ hệ thống phòng thủ và vị trí chiến lược. Ấy là công trạng của Constantine. 

Năm 395,đế quốc La Mã chia hai: đông  (tím) và tây (đỏ)

Constantinople, thủ phủ chính trị và thủ phủ của giáo hội Orthodox đã bị suy yếu trong cuộc Thánh Chiến Thứ Tư. Đoàn hùng binh của giáo hội La Mã thay vì đến Jerusalem đánh người Muslim thì vào chiếm và phá hủy đô thị nầy. Vết thương nầy mở đường cho việc đế quốc Ottoman (Muslim) kết thúc số phận của đế quốc La Mã và dồn Orthodox lên phía Bắc đóng đô ở Nga.

 
Những dòng  trên đây có phần thừa thải nhưng có thể giúp hiểu thêm vì đế quốc La Mã và TCG không bao giờ tách khỏi nhau.
Cho đến khi chết, Constantine vẫn giữ danh hiệu Pontifex Maximus (Giáo lãnh tối cao) của tất cả các tín ngưỡng tôn giáo trong đế quốc. Với đặc quyền nầy (có từ vua đầu tiên Augustus) ông điều khiển chi phối hoàn toàn TCG. Mãi đến lúc gần chết ông mới xin rửa tội và hứa nếu lành mạnh ông sẽ là con chiên gương mẫu. Việc ngưng đàn áp đã có từ trước theo chiếu chỉ của Galerius, ông chỉ thêm phần trả lại tài sản bị tịch thu. Ông hành động như một chính trị gia. Ông không muốn bất cứ xáo trộn nào, dù về tôn giáo, xã hội v.v…Bất ổn đã xẩy ra trong TCG về thần học; bản thể của Jesus là đề tài sôi bỏng có thể đưa đến những tai họa ly khai, hay bạo động.
Danh từ “ba ngôi”, không có trong thánh kinh, là sáng kiến của các nhà siêu hình học thế kỷ thứ 2 nhưng nội dung ý nghĩa còn tranh cải. Christ là Thượng Đế hay người? hay ở chặng giữa? Christ là kẻ thụ tạo hay không? Giáo sĩ Arius thuộc vùng Ai Cập chủ trương rằng Christ là thực thể thụ tạo (crée, creature) tuy ở trên các thụ tạo khác. Chúa Con không giống, không cùng bản thể với Chúa Cha. Tuy bị khai trừ, ông vẫn được ủng hộ của phân nửa các địa phận trên toàn đế quốc. Nhà vua ra lệnh triệu tập đại hội giáo sự (công đồng) và cho phép Arius trình bày luận thuyết nầy. Trước khi Arius mở miệng, hơn ba trăm giám mục đã tuyên bố ủng hộ lập trường Chúa Cha và Chúa Con giống nhau ngang nhau về bản thể. Arius bị án lưu đày; sách của ông bị tịch thâu đốt.
Vụ án Arius mở đầu các vụ duyệt xét chính tà. Những khuynh hướng có phần huyền nhiệm (mysticisme) đều bị trừ khử. Nhiều tài liệu đã mất. Tuy mới hai ngàn năm cho đến nay, rất ngắn so với lịch sử các nước như Hy Lạp, Ai Cập, Trung Hoa, thế mà không ai dám chắc Jesus nói ngôn ngữ nào; đa số các học giả cho là tiếng Armenian, nhưng vẫn là một giả thuyết.
Từ khi Constantine dời đô qua Rome Mới, sự cách trở địa lý đã âm thầm chia bớt phần nào quyền lực Pontifex Maximus cho Giáo Hoàng. Giáo hoàng thành “Pontif” thực sự khi Miền Tây Đế Quốc La Mã sụp đổ với sự xâm chiếm Barbarian. Tuy trên giấy mực chỉ thành quốc giáo từ 380 qua quyết định của vua Theodosius, TCG đã chiếm địa vị độc tôn. Pontifex Maximus Constantine đã dùng quyền lực loại bỏ các tín ngưỡng khác để củng cố TCG với tin tưởng rằng nhờ đó có ổn định, làm cho các nước bị trị tôn trọng trật tự được La Mã sắp xếp (Pax Romana). Constantine và các kế nghiệp công khai chủ trương phá hủy đền đài, nơi thờ phượng các tôn giáo, ngay ở Hy Lạp. Ngoài việc đốc thúc phá hủy một số lớn tác phẩm điêu khắc và kiến trúc, Theodosus còn cấm tổ chức Thế Vận Hội Olympic từ 393 (mở lại 1896). Vua nầy có nhiều điểm giống Constantine: triệu tập các đại hội giáo sự giải quyết các vấn đề thần học, tước quyền các giáo lãnh bị xem là tà đạo, và đến lúc gần chết mới chính thức chịu rửa tội. 

Brosen icon constantine helena.jpg
Constantine và mẹ điều được phong thánh St Constantine & Ste Helena

◙ 
Điểm cuối: nhiều người hời hợt đã ví Asoka với Constantine, một sai lầm trầm trọng. Hai người nầy chỉ gặp nhau ở điểm đều là vua nước lớn. Asoka đã dùng binh lực để chinh phục, nhưng thấy cái vô nghĩa của chém giết nên đã tìm về tôn giáo. Ông ủng hộ Phật Giáo và cho đến chết vẫn có cuộc sống đạo đức, không biến PG thành quốc giáo. Constantine dùng quân lực làm vua miền Tây và sau đó toàn đế quốc. Ông đã trên thực tế công nhận TCG là quốc giáo (hợp thức hóa bởi Theodosius); ông tiếp tục những việc như giết con trưởng, giết vợ, giết cháu, làm gương xấu cho thế hệ sau tương tàn gấp bội.
Tuy giúp đỡ PG phát triển, Asoka không đàn áp các tôn giáo khác, không can thiệp vào giáo lý. Có sự khác biệt nhỏ giữa nhà sư em ông và một nhóm khác, nhưng Asoka không chút ganh ghét hay cầm tù, phát vảng. Ông chỉ cấm sát sanh để cúng tế và hủy bỏ án tử hình.
Constantine có cấm hai điều khá thú vị dành riêng cho người Do Thái. 1- cấm bắt hay mua người TCG làm nô lệ. 2- cấm đè nô lệ “hợp pháp” ra mà cắt qui đầu. (circumcise)./-

Sunday, May 25, 2025

Trái tim gỗ



       Phụ nữ Ukraine tỵ nạn ở Roumanie

TRÁI TIM GỖ
Yuliia Iliukka * The New York Review of Books, June 12, 2025

Trái tim gỗ mà tôi mang theo người 
như cái khiên cái mộc trên chiến trường xưa
được chạm trổ bởi bàn tay của một giáo sư dạy địa dư từng sống ở tỉnh Melitopol (Ukraine).
Có lẽ vì vậy mà nó giống như cái bản đồ
của những trái tim nơi những người đàn bà đã bỏ xóm làng trong thời ngoại xâm đen tối để đi vào đêm tối tương lai.
"Kẻ thù đã nhảy vô chiếm ngụ nhà của tôi",
giáo sư địa dư nói thế
khi đứng trên một cây cầu ở Bratislava (Slovakia)
bán những trái tim vẽ. Nhà giáo nói tiếp:
"Nếu được, tôi sẽ thắp sáng trái tim tôi
như ngọn đuốc, rọi sáng đường về quê tổ, đúng mục đích của ánh lửa.
''Và rồi, có thể rằng
ánh lửa ấy sẽ ngăn chận chấn thương sợ hãi vì còi báo động oanh tạc, như tín hiệu thời tiết đổi thay".
''Trái tim tôi, giáo sư địa dư tiếp tục, 
đã thành đá cuội vì căm thù.
Tôi là một người đàn bà bằng gỗ
bán những trái tim gỗ 
trên cây cầu gió cuốn nầy.
Xin vui lòng 
nhận quả tim nầy làm quà lưu niệm.
Có thể, có thể lắm,
đó là một trái tim thật".
Tĩnh Vật
Tôn Thất Tuệ * 1984

Tôi chết mất một sáng mai sầu nhớ
ở quanh tôi sách vở ơ thờ
những cây bút mực khô mất hết máu
một cành hoa ủ rủ nhựa đông dày.

Tôi chết mất một buổi mai sầu nhớ
những con người bằng gỗ hay bằng nhung
trong tủ kính ướp thời Ai Cập
không biết cười nhưng mặc áo rất xinh.

Xin sống dậy những con người bằng gỗ
xin thốt tên, những thiên thần bằng sứ
tiếp nhận tôi vào thế giới không hồn
tôi đã chết trước khi các ngài hiện diện.

Xin tiếp tôi vào thế giới không hồn
tôi sẽ hát cho các ngài một khúc nhạc
bằng những tiếng rơi của mảnh vỡ tâm hồn
những tiếng rụng của cánh tay băm nát
dưới nhát dao của những sợi tơ
vấn tôi lại như tù binh thất trận,
Ở trong tôi đã có một thế giới không hồn.-

Lessons of Geography
Yuliia Iliukka  The New York Review of Books, June 12, 2025

The wooden heart
I wear over my own
like a tiny armor plate
was carved by the hands of a geography teacher
from Melitopol.
Maybe this is why it looks like a map
of all the hearts of all the women
who left their homes in the dark of occupation,
marching into the darkness of their future.
“Enemies live at my place now,”
says the geography teacher
who sells painted hearts
on a bridge in Bratislava.
“If I could
I’d light up my own
like a torch
to show the way home, the target of fire.
And then maybe
it would stop aching during each air raid siren
as if signaling a change of weather.”
“My heart,” says the geography teacher,
“is petrified with hate.
I am a wooden woman
selling wooden hearts on a windswept bridge.
There’s a dash instead of a place of residence in my biography.
Please
take this heart as a gift.
Maybe it’s
the real one.”
(translated from Ukrainian by Anna Antonova, lecturer at the University of Alberta).

================================================

Đà Lạt xưa




Saturday, May 24, 2025

Trà thư, chương 5,


Thưởng Ngoạn Nghệ Thuật
theo sách Trà Thư

Tiền luận của Tôn Thất Tuệ ◙ 1953, ở lớp đệ ngũ, trong giờ Việt ngữ, tôi có học bài giảng văn Trà Thư của Khái Hưng. Chỉ bấy nhiêu thôi và bài nói về hoa bắt đầu với việc chê trách trồng hoa chậu là trái với thiên nhiên, ca ngợi lòng thành của người đời dành cho hoa như triết gia Vương Dương Minh ngồi trầm trồ với đám cúc. Và tôi nhớ mãi ở phần cuối có câu nói của một hoàng hậu Nhật Bản: Hoa ơi, nếu ta ngắt hoa thì tay ta làm hoa ô uế, ta chỉ muốn trông hoa ngoài nội cỏ để dâng lên Đức Phật Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai.
Giáo sư là thầy Huyền Anh, tay trái thầy không dùng và luôn đeo găng tay len. Đường rẻ tóc trên đầu chạy theo một sẹo dài như bị chém. Tôi thấy lạ cái tên Huyền Anh không giống các tên khác thông thường như thầy Cao Hữu Triêm, thầy Nguyễn Văn. Tôi nghe lõm bõm thầy người Sịa, vết thương trên đầu và bàn tay liệt là thầy thoát chết trong vụ thanh trừng trí phú địa hào 1945 tại Sịa; ai ở Sịa lúc nầy có thể biết nạn nhân trí thức khác là cậu Thừ, em của dì Mộng. 
Trở về bài giảng văn, thầy Huyền Anh không nói gì về Khái Hưng và không giải thích vì sao có đầu đề Trà Thư.

Khái Hưng thì lên đến đệ tam mới biết sơ sịa qua Tự Lực Văn Đoàn. Dần đà chúng tôi biết thêm Trà Thư là tên cuốn "The Book of Tea" mà cũng chưa rõ là bản dịch hay được viết trực tiếp tiếng Anh. Saigon có cho in một bản dịch của Bảo Sơn, Lá Bối xuất bản 1967 .

Ngày nay tìm hiểu thêm, bài Trà Thư của Khái Hưng có những yếu tố ghi trong chương áp cuối "Hoa" của The Book of Tea. Xem đó như một bản trích dịch, đối chiếu câu hát của hoàng hậu Komio "If I pluck thee, my hand will defile thee, O flower! Standing in the meadows as thou art, I offer thee to the Buddhas of the past, of the present, of the future". Bản liệt kê tác phẩm của Khái Hưng không có gì liên hệ đến cuốn sách nầy.

Trước đây tôi có viết về cây ngô đồng và có hứa sẽ trình bày cây ngô đồng trong Trà Thư. Chuyện cây ngô đồng chỉ là phần nhỏ mở đầu một chương tương đối khó về cách thưởng lãm nghệ thuật. Bản Việt ngữ đính kèm không nói rõ là cây gì và dùng chữ Nhật là kiri, trong lúc ấy Bảo Sơn dịch là cây ngô đồng; ngô đồng là loại gỗ làm đàn.
The Book of Tea nguyên thủy viết bằng Anh ngữ năm 1906 bởi Okakura Kakuzo (岡倉 覚三1863-1913). Kakuzo học tiếng Anh từ nhỏ và đến khi thành thục ngoại ngữ nầy mới học Hán Tự. "The Book of Tea" hòa lẫn khía cạnh thế tục về trà và cuộc sống Nhật cùng triết lý Thiền và Đạo học. Cuốn sách đã đi vào ngay trong thế giới triết học Tây Phương và Heiddeger đã vội vã cho rằng Kakura hoàn toàn bị chinh phục bởi Trang Tử, nhiều người không đồng ý. Okakura đã khơi mào môi trường thuận tiện cho Thiền Học, làm xúc tác đáng quý cho học giả Thiền đích thực là Suzuki. Nhiều thư viện internet đã liệt kê hai tác phẩm của ông vào mục Phật Giáo Bắc Tông.
Trà Thư xuất hiện năm 1906, một năm sau khi Nhật thắng Nga trong cuộc chiến ở Mãn Châu, Triều Tiên. Chiến thắng nầy làm thế giới  không còn gọi Nhật là một dân tộc mọi rợ. Nhưng Kakuzo tỏ ra đáng tiếc, quê hương của ông được biết đến vì những thảm sát chiến tranh trên bán đảo Liêu Đông. Ông ngầm nói Nhật Bản của ông rất văn minh ngàn năm, nó như thế nầy, dù chỉ mới nói một chuyện là uống trà, thành một thứ đạo gọi là trà đạo, không tách lìa nghệ thuật và tâm linh.
Trước đó 2 năm (1904) Kakuzo ra đã xuất bản cuốn The Ideals of the East (Những Lý Tưởng của Đông Phương), liên quan đến PG nhiều hơn, tuy rằng tác giả không quên nghệ thuật các ngành nói chung. Cuốn sách quá khó, chúng tôi dội lui nhưng câu mở đầu mang một nhận định rõ ràng nhất về sự khác biệt Đông Tây.
"Á Châu là một. Hy Mã Lạp Sơn đã chia thành hai nền văn minh to lớn. Trung Hoa chủ trương cộng đồng sống chung theo Khổng Tử; và Ấn Độ chủ trương từng cá nhân tự thức tĩnh theo kinh Vệ Đà. Nhưng những ngọn núi tuyết nầy không ngăn chận lòng tha thiết đối với (điều gọi là) Tối Thượng và Phổ Quát, để tạo ra các tôn giáo lớn nhất thế giới ăn sâu vào đời sống tâm linh các các dân tộc Á Châu; làm nổi bật sự khác biệt với các dân tộc miền biển ở Địa Trung Hải và Baltic; những dân tộc nầy chỉ chú trọng đến các đặc thù riêng biệt, chỉ mưu cầu các phương tiện của đời sống; chứ không nghĩ đến cứu cánh của đời sống" *
.
[*ASIA is one. The Himalayas divide, only to accentuate, two mighty civilisations, the Chinese with its communism of Confucius, and the Indian with its individualism of the Vedas. But not even the snowy barriers can interrupt for one moment that broad expanse of love for the Ultimate and Universal, which is the common thought-inheritance of every Asiatic race, enabling them to produce all the great religions of the world, and distinguishing them from those maritime peoples of the Mediterranean and the Baltic, who love to dwell on the Particular, and to search out the means, not the end, of life. * Hai chữ individualism và communism chúng tôi không dịch theo nghĩa hiện thời là chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa cộng sản. Hai chữ nầy hiện tại mang hai nghĩa khác với nghĩa trong bài. Individualism trong bài hướng về chủ trương mọi con người có khả năng hướng thiện, tự giải thoát; các lý thuyết luân lý và tôn giáo nhằm giúp từng cá nhân chứ không giải quyết tập thể như một đàn cừu theo những giáo lệnh như nhịp gõ của cây gậy trong tay kẻ chăn chiên. Communism của Kakuzo xuất hiện 1906 tức là 11 năm trước cách mạng Nga của Lenine. Communism từ lúc đó mới được hiểu theo nghĩa CS ngày nay; hơn nữa chủ trương của Khổng Tử khác chủ trương CS. Khổng Tử lo về một đời sống cộng đồng của quốc gia, phải có mối tương tác hòa nhịp, có trật tự: quân quân thần thần phụ phụ tử tử. Chủ trương của CS Tàu xem Khổng Tử là kẻ thù, cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông nhằm phá vỡ xã hội xây dựng trên lý thuyết Khổng Tử.]


THƯỞNG NGOẠN NGHỆ THUẬT
Chapter V:  Art Appreciattion, The Book of Tea
Phan Quang dịch

Các vị có biết câu chuyện kể của Đạo gia về Cây đàn đợi chủ?
Ngày xưa, xưa lắm, tại của động Long Môn mọc một cây kiri, chúa tể thực sự của sơn lâm. Ngọn nó cao tới mức có thể trò chuyện cùng các vì sao trên trời. Rễ nó đâm rất sâu, cuộn thành những cái vòng của con Rồng Bạc đang ngủ yên trong lòng đất. Về sau có một pháp sư cao cường đốn hạ cay kiri ấy xuống, lấy gỗ nó làm thành một cây đàn kỳ diệu. Tuy nhiên cây đàn này hết sức ngang ngạnh, chỉ có bàn tay của bậc nhạc sĩ kỳ tài mới sử dụng được mà thôi. Cây đàn trở thành một báu vật của hoàng đế Trung Hoa. Có rất nhiều người từ khắp nơi đã về kinh xin thử dùng cây đàn nhưng không một ai có thể gảy nên thục thức. Ai cố gắng lắm thì cũng chỉ buộc được cây đàn phát ra những tiếng chát chúa như tuồng miệt thị cả người chơi. Nó khăng khăng không chịu hoàn tiếng tơ cùng giọng hát người nghệ sĩ. Nó không chịu nhận bất kỳ ai là chủ nhân của mình.

Mãi sau gặp Bá Nha, một tay đệ nhất danh cầm. Bàn tay dịu dàng người nhạc sĩ bắt đầu vuốt ve cây đàn như thể người ta tìm cách vỗ về một con ngựa bất kham, lát sau mới nhẹ nhàng đọng tới các sợi tơ. Rồi nhạc sĩ cất cao tiếng hát ngợi ca thiên nhiên và thời tiết bốn mùa, những đỉnh núi chọc trời và những ngon suối róc rách; vậy là bỗng nhiên như thể các kỷ niệm xưa của cây đại thụ bừng tỉnh. Và người ta bỗng lại nghe như đâu đây có ngọn gió xuân vừa thổi tới, mơn man cành lá cây rừng. Lại tưởng thấy những ngọn thác nhảy múa dưới vực thẳm, nước toé lên như thể mỏm cười với những bông hoa vừa hé nụ. Lại tháng nghe giọng hát mơ màng của mùa hạ qua tiếng vo ve của muôn vàn côn trùng, con chim tu hú hót, con mưa hè dồn dập. Hãy lắng nghe kìa: Có phải một con hổ vừa cất tiếng gầm đâu đây, và ngàn sâu ngân vang lời đáp lại. Nhưng mùa thu lại đến rồi. Trong đêm thâu thanh vắng, trăng non sắc như lưỡi liềm chiếu lấp lánh những giọt sương sa đầu ngọn cỏ. Kế đó là màu đông; giữa những bầu trời trắng xoá tuyết rơi, những đàn thiên nga vội vã lượn vòng bay tìm nơi trú rét, những hạt mưa đá bộp bộp gõ xuống các cành cây với một niềm vui hoang dại.

Rồi Bá Nha đổi giọng. Nhạc sĩ chuyển sang những khúc hát ca ngợi tình yêu. Rừng cây cúi đầu như thể một chàng trai long nồng cháy yêu thương chìm đắm trong suy tư. Trên trời cao đám mây rực rỡ bay qua, kiêu sa tựa một nàng trinh nữ khoác tấm áo mây dài, mây bay đến đâu là kéo theo lê thê cái bóng phủ xuống mặt đất như rải những tuyệt vọng. Sau Bá Nha lại đổi giọng nữa rồi. Lần này chàng hát về chiến chinh, nghe  loảng xoảng gươm đao trong tiếng ngựa hí vang trời. Vậy từ cây đàn bỗng dậy cơn bão tố trước Động Long Môn, như có con rồng dữ cưỡi làn chớp bay vút lên trời, như có băng tuyết đất đá ầm ầm lỏ xuống từ sườn núi cao. 
Hoàng Đế Trung Hoa ngạc nhiên đến sững sở, hỏi Bá Nha đâu là bí quyết thành công. Chàng đáp: “Tâu bệ hạ, những người trước kia thất bại vì họ chỉ biết ngợi ca mình. Thần để cho cây đàn tự nó chọn những chủ đề nó ưa thích, mà thật ra lúc vừa hát vừa đệm đàn, chính thần cũng không rõ cây đàn là Bá Nha hay Bá Nha là cây đàn”.

Câu chuyện trên minh họa thật tài tình cái huyền diệu trong thưởng ngoạn nghệ thuật. Mỗi kiệt tác là một bản giao hưởng thể hiện những tình cảm tinh tế nhất của con người. Nghệ thuật đích thực, ấy là Bá Nha còn chúng là ta là cây đàn Động Long Môn.

Cây đũa thần của cái Đẹp khua những sợi dây đàn bó ẩn trong tâm hồn ta tỉnh giấc. Trước lời kêu gọi của cái đẹp, những sợi tơ lòng rung lên và ta bỗng dưng xúc động. Tâm hồn nói với tâm hồn. Chúng ta ngghe rõ những lời không thốt ta, chúng ta nhìn thấy cái vô ảnh vô hình. Bàn tay nghệ sĩ khơi gợi nơi ta những giai điệu ta chưa từng biết. Bao kỷ niệm lãng quên từ lâu bỗng lại hiện về trong lòng ta mang theo ý nghĩa mới. Những niềm hy vọng bóp nghẹt vì lo âu, những đam mê ta chưa hề dám tỏ bày trở lại thôi thúc ta với một vầng hào quang mới. Tâm hồn ta là tấm vải căng sẵn trên khung để bàn tay nghệ sĩ đặt lên đó các màu sắc, những mảng sáng nói lên niềm vui của chúng ta, những mảnh tối là nỗi buồn của lòng ta đó. Kiệt tác ở trong ta và ta ở trong kiệt tác.

Sự đồng cảm tối cần cho thưởng ngoạn nghệ thuật dựa trên nền tảng nhân nhượng lẫn nhau. Người xem phải chuẩn bị tâm hồn để tiếp nhận thông điệp, còn nghệ nghệ sĩ phải biết cách truyền tải thông điệp ấy đi. Koboro Enshu, một trà sư nổi tiếng và cũng là một đại thần từng có câu nói đáng ghi nhớ: “Bạn hãy tiếp xúc một nghệ sĩ lớn như thể tiếp xúc một bậc đại vương”. Muốn hiểu được một kiệt tác, bạn hãy cúi đầu thật thấp và chờ đợi, bãn hãy nín thở cố lắng nghe những gì kiệt tác sẽ nói lên với mình. Một nhà phê bình nghệ thuật trứ danh đời Tống có lần thốt ra một lời thú nhận đáng yêu: “Khi tôi còn trẻ, tôi ngợi khen bà danh họa đã sáng tạo nên những bức tranh mà tôi thích, dần dần già dặn thêm, tôi lại tự khen mình đã biết thích những gì nhà danh hoạ đã chọn lựa khiến cho tôi thích nơi búc tranh ấy”. Thật đáng phàn nàn là trong chúng ta rất ít người quan tâm nghiên cứu phong cách của các nghệ sĩ bậc thầy. Cứ khư khư cái dốt nát của mình, chúng ta đã không làm nổi điều lịch sự tối thiểu ấy, vì vậy chúng ta đã không thưởng thức nổi đại tiệc nghệ thuật đang bày ra trước mắt. Nghệ sĩ bậc thầy lúc nào cũng có cái gì đó để mời chúng ta thưởng thức, vậy mà chúng ta ra về lúc nào bụng cũng vẫn đói meo chỉ vì không có đầu óc thẩm mỹ.

Ngược lại, với những ai có khả năng thưởng ngoạn, tạo được sự đồng cảm của tâm hồn với nghệ thuật, mỗi kiệt tác sẽ trở thành một thực tế sống động đủ sức cuốn hút ta qua những mối liên hệ bạn bè. Các nghệ sĩ bậc thầy sở dĩ bất tử, là vì tình yêu thương của họ, những âu lo của họ mãi mãi sống nơi lòng ta. Tâm hồn chứ không phải bàn tay, con người chứ không phải kỹ thuật đã cất lời kêu gọi ta, và lời kêu gọi càng mang tính người thì sự đáp lại của ta càng sâu sắc, và chính nhờ sự đồng tình giao cảm bí huyền ấy mà chúng ta có thể cùng đau khổ cùng hạnh phúc với những nhân vậttrong thi ca và tiểu thuyết. Nhà viết kịch Chikmatsu Sheakespeare của Nhật Bản chúng tôi, cho rằng một trong những nguyên lý thiết yếu của sáng tạo kịch nghệ là khơi gợi được niềm tin nơi công chúng. Một lần, các học trò của ông cùng đệ trình khá nhiều kịch bản, ông chỉ thích có một. Đấy là một vở kịch ít nhiều tương tự vở “hài kịch của những nhầm lẫn” nói về chuyện hai anh em sinh đôi luôn bị người ta nhận nhầm vì giống nhau như đúc. Chikamatsu nói : “Ừ, ta cảm thấy vở kịch này có tinh thần của kịch nghệ , bởi vì nó có quan tâm đến công chúng; nó làm cho khán giả khi xem hiểu rõ vở kịch hơn các diễn viên, Khán giả hiểu do đâu có sự nhầm lẫn, và đem lòng thương hại các nhân vật trên sân khấu cứ mãi ngây thơ lăn xả vào số phận”.

Các nghệ sĩ bậc thầy ở phương Đông cũng như phương Tây chưa bao giờ coi nhẹ tầm quan trọng của cách làm sao khơi gợi cho được sự đồng cảm của khán giả đối với cái bí ẩn trong tác phẩm của mình. Có ai không cảm thấy hãi hùng trước nội dung tư tưởng mênh mông nó mang lại? Có kiệt tác nào của các bậc thầy mà không khiến cho người xem cảm thấy yêu thương mến mộ? Ngược lại, các tác phẩm thời nay cái nào cũng na ná cáo nào như được rập từ một cái khuôn thì lạnh lùng vô cảm biết ngần nào! Một đằng là sự giải bày nồng nhiệt của tâm hồn con người, một đằng chỉ là biểu hiện công thức. Các nghệ sĩ hiện đại thường nô lệ vào kỹ thuật cho nên ít chịu nâng mình lên cao hơn con người của chính họ. Cũng giống như các nhạc sĩ từng thất bại không sử dụng được cây đàn Động Long Môn, các giai điệu của người nghệ sĩ ngày nay chỉ toàn hát về mình. Nếu tác phẩm của họ có tiền gần đến khoa học, thì chắc chắn chúng ngày càng rời xa con người. Có một câu ngạn ngữ cổ ở Nhật Bản nói rằng, phụ nữa không thể nào yêu một người đàn ông kiêu ngạo quá chừng, bởi trong trái tim luôn đầy ắp kiêu căng của chàng ta làm gì còn chừa khe hở nào nữa đâu để cho tình yêu có thể len vào trong đó. Trong nghệ thuật, lòng kiêu căng bao giờ cũng tai hại cho sự đồng cảm, bất kể sự kiêu căng ấy xuất phát từ người nghệ sĩ hay từ công chúng mà ra.

Còn có gì thánh thiện hơn sự hòa hợp giữa những tâm hồn đồng cảm thông qua nghệ thuật? Vào những phút giây lòng người gặp được lòng người, ai yêu nghệ thuật đều cảm thấy như tự mình cũng được nâng lên. Người ta có cảm thấy mình là đồng thời mình, cũng không còn là chính mình. Họ nhìn thoáng thấy cái vô cùng nhưng không làm sao đủ sức diễn tả hết niềm vui, vì con mắt làm gì có lưỡi. Tinh thần được giải thoát khỏi thể chất, tha hồ bay bổng theo vũ điệu của vạn vật. Chính nhờ vậy mà nghệ thuật gần gũi với tôn giáo và làm cho loại người thêm cao quý. Chính nhờ vậy, kiệt tác nghệ thuật trở thành gần tựa vật thiêng. Người Nhật Bản thời xưa lúc nào cũng bày tỏ sự ngưỡng vọng hết mức đối với tác phẩm của những nghệ sĩ lớn là do vậy. Bác bậc trà sư cất giữ báu vật của mình cẩn trọng như giữ đồ thờ phụng. Muốn xem, phải mở cả một loạt hòm, hòn to chứa hộp nhỏ, mở mãi mới lấy ra được cái vật báu gói bọc cẩn thận trong tấm lụa mượt mà chẳng khác nào đó là một di vật tối thiêng liêng. Báu vật ít khi mang ra cho mọi người cùng xem, trừ ai cùng hội cùng thuyền.

Và cái thời trà đạo đạt đến tột đỉnh cao, các tướng lĩnh lập được nhiều chiến tích thường mong được triều đình tặng thưởng một tác phẩm nghệ thuật quý hiếm hơn là ban cho một thái ấp. Vì vậy nhiều vở kịch được công chúng mến mộ nhất thường đề cập đến chủ đề, qua nhiều gian truân cuối cùng tìm lại được một kiệt tác phiêu lạc. Có một vở diễn lại câu chuyện, tại dinh thự của hầu tước Hosokawa có tàng trữ một bức tranh của danh họa Tuyết Thôn vẽ Đức Lạt Ma. Một hôm, do sự bất cẩn của viên võ sĩ đến phiên trực, hỏa hoạn bùng phát. Quyết tâm cứu cho được bức danh họa bằng bất cứ giá nào, võ sĩ lao vào ngôi nhà đang bốc cháy dữ dội, tìm cách giật lấy bức tranh, Nhưng mọi lối thoát đều đã bị ngọn lửa bịt kín hết rồi. Vậy là để bảo toàn bằng được bức tranh quý, chàng môn đò võ sĩ đạo liền rút gươm tự rạch bụng mình, xé một cánh tay áo cuộn kín tấm lụa tác phẩm của Tuyết Thôn, rồi nhét luôn vào bụng qua vết cắt vừa mới mở. Khi đám cháy được dập tắt, người ta tìm thấy trong đám tro tàn bốc khói một thi thể hầu như đã cháy rụi song vẫn còn ôm gọn trong lòng cái báu vật nhờ vậy bức kiệt tác được bảo toàn. Cho dù câu chuyện hơi quá bị thương, nó minh họa tài tình, cùng với lòng tận tụy của một võ sĩ trung thành, cái giá và người Nhật chúng tôi vẫn đặt vào một kiệt tác.

Tuy nhiên, xin chớ quên rằng, một tác phẩm nghệ thuật chỉ có giá trị trong chừng mực nó nói lên được điều gì đó với chúng ta. Nó có thể nói bằng ngôn ngữ phổ thông nhất, người bất cứ nước nào đều có thể nghe có thể hiểu, nếu chúng ta cũng học được cách bày tỏ tình cảm của mình đối với tác phẩm nghệ thuật bằng ngôn ngữ chung. Bản thể con người vốn đã hạn chế, lại gánh thêm sức nặng của truyền thống và những ước lệ của xã hội, cộng với những gì thừa hưởng được từ di truyền nằm sâu trong các bản năng, làm cho năng lực thưởng ngoạn nghệ thuật của chúng ta càng trở nên hạn hẹp. Cá tính của mỗi người, theo cách nào đó cũng giới hạn hiểu biết, vì vậy ta thường có thói nghiêng theo thiên hướng tìm những cái gì quen thuộc với mình trong các tác phẩm thời quá khứ. Đúng là nếu chúng ta chịu khó thường xuyên trau dồi dần dần rồi sẽ có khả năng thưởng ngoạn nhiều dạng thức của cái đẹp mà trước đây ta vẫn tưởng không cách nào tiếp xúc. Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta thường chỉ nhìn thấy hình ảnh của mình trong vũ trụ, đã thế tính cách riêng của mỗi người lại chi phối cảm nhận cá nhân về nghệ thuật. Các bậc đại trà sư xưa nay chỉ sưu tập những vật thật sự phù hợp với mỹ cảm riêng của mình.

Nhân đây, tôi chợt nhớ một câu truyện lưu truyền về trà sư Kobori Enshu. Các môn đệ ông hay ngợi ca mỹ cảm tuyệt vời của thầy thể hiện qua bộ sưu tập riêng các báu vật. Môn đệ khen: “Vật nào cũng đẹp, khiến bất kỳ ai được nhìn thấy cũng khó ngăn nổi trầm trồ. Điều đó chứng tỏ mỹ cảm của thầy cao hơn hẳn đại trà sư Rikyiu, bởi cả ngàn người xem mới có được một người đủ khả năng thưởng thức cái đẹp những vật mà ngài Rikyiu sưu tập”. Nghe vậy, Enshu buồn rầu đáp “Đó rõ ràng là chứng cứ về sự tầm thường kém cỏi của ta. Ngài Rikyiu vĩ đại có đủ dung khí chỉ yêu thích những gì thật sự hấp dẫn riêng ngài, trong khi đó ta lại tự xếp mình một cách vô thức vào sở thích của số đông. Rõ ràng cả ngàn trà sư mới có được một vị như ngài Rikyiu.

Ngày nay, thật đáng buồn, nỗi nhiệt tình hời hợt của chúng ta đối với nghệ thuật không dựa trên tình cảm thực nào. Vào thời buổi gọi là dân chủ như thời đại chúng ta ngày nay, người ta chỉ biết gào thét ngơi ca những gì mà số đông coi như tốt đẹp hơn tất thảy các thứ khác, mà không hề cân nhắc đến tình cảm thật của riêng mình. Người ta bỏ cái tinh tế để chuộng thứ đắt tiền, ruồng rẫy cái đẹp mà chạy theo thời thượng. Đối với quảng đại dân chúng thì đã có sẵn những tờ tạp chí in đầy tranh ảnh minh họa, sản phẩm thật xứng đáng với lòng tôn sùng kỹ nghệ của xã hội ngày nay, thường xuyên cung cấp các món ăn nghệ thuật dễ tiêu hóa hơn nhiều so với thưởng ngoạn những kiệt tác thời cổ đại ở Ý hay của các danh họa triều đại Ashikaga Nhật Bản, mà mọi người ai cũng luôn miệng cho rằng mình hết sức ngưỡng mộ. Dưới con mắt của số đông, tên tuổi người nghệ sĩ quan trọng hơn phẩm chất tác phẩm. Cách đây mấy thế kỷ, một nhà phê bình nghệ thuật Trung Hoa đã phàn nàn: “Thiên hạ đời nay đánh giá hội họa bằng lỗ tai”. Chính sự thiếu vắng đầu óc thẩm mỹ là nguyên nhân dẫn đến việc sản xuất ra hàng loạt tác phẩm cổ điển dởm bày la liệt khắp chốn khắp nơi, mà cho dù ta có quay mặt đi đâu cũng không tránh khỏi nhìn thấy.

Một sai lầm khác không kém phần phổ cập là nhầm lẫn nghệ thuật với khảo cổ học. Sự sùng kính đối với nghệ thuật thời cổ đại là một trong những nét cao quý nhất của các đức tính loài người, và chúng ta cầu mong cho đức tính ấy ngày càng tỏa rộng, lan sâu hơn nữa. Các nghệ sĩ bậc thầy thời thượng cổ xứng đáng được mọi ngưỡng vọng, bởi các vị có công mở đường khai hóa cho hậu thế. Riêng cái việc giản đơn là tác phẩm của họ đã vượt lên không biết bao lời phê bình chỉ trích để còn lại tới ngày nay, để đến với chúng ta mang theo toàn bộ hào quang, đã đủ cho mọi người tôn sùng họ. Tuy hiên, chúng ta sẽ là những kẻ ngốc nếu chỉ đơn thuần căn cứ vào thời gian xa hay gần, tức là vào tuổi của tác phẩm, để đánh giá mức độ thành công của chúng. Vậy mà chúng ta vẫn thường để cho tình cảm mến mộ lịch sử vượt lên trên năng lực thẩm định mỹ học. Phải chờ cho đến lúc người nghệ sĩ nằm yên trong nấm mồ, chúng ta mới mang dâng họ bó hoa tán thưởng. Thế kỷ XIX là thế kỷ sản sinh thuyết tiến hóa, nhựng nó lại có cái không hay là tạo cho mọi người thói quen để cá nhân chìm khuất trong chủng loại. Một nhà sưu tập luôn quan tâm tìm kiếm những tiêu bản đại diện cho một thời đại hay một trường phái, mà quên mất rằng chỉ cần một kiệt tác thôi là đủ soi sáng chúng ta về cả một thời đại hay một trường phái nghệ thuật, hơn là số lượng lớn mà chỉ gồm những tác phẩm tầm thường của thời đại hay trường phái ấy. Chúng ta quá thiên về phân loại học mà coi nhẹ thưởng ngoạn. Xu hướng mở quá nhiều cuộc triển lãm mệnh danh khoa học mà không quan tâm đúng mức ý nghĩa mỹ học, là nguyên nhân dẫn đến sự tàn tạ của nhiều viện bảo tàng ngày nay.

Cho dù nhìn về bất cứ góc độ sống động nào của thực tại, thì các quyền của nghệ thuật hiện đại không thể không được con người biết đến. Nghệ thuật hôm nay là cái thực sự thuộc về chúng ta, bởi nó phản ánh chính chúng ta. Bài bác nó, tức là ta tự bài bác ta. Bảo rằng thời đại chúng ta ngày nay không còn có nghệ thuật, vậy thì lỗi ấy tại ai? Đối với người xưa, chúng ta quen ca ngợi không tiếc lời, nhưng lại chẳng mấy ai quan tâm đến những khả năng cùng thời với mình, quả là điều đáng hổ thẹn. Vậy mà thời đại chúng ta có thể biết bao nghệ sĩ đang chiến đấu, biết bao tâm hồn đang kiệt lực vì lao động miệt mài cho cái đẹp thì ta lại bỏ mặc, để cho lụi tàn trong tối tăm chẳng được ai đoái hoài. Cái thế kỷ tự cho mình là trung tâm của vũ trụ này đã tạo cho người nghệ sĩ được cảm hứng gì? Quá khứ có thể đang thương hại nhìn sự nghèo nàn của nền văn minh hiện đại, tương lai sẽ cười cho cái khô cằn của nghệ thuật thời nay. Chúng ta đang hủy hoại nghệ thuật bằng cách hủy hoại cái đẹp trong lòng cuộc sống. Liệu có thể xuất hiện một đại pháp sư cao cường đủ tài sức đẽo từ cái than của xã hội chúng ta hôm nay để làm nên một cây đàn kỳ diệu mà mọi sợi tơ đồng sẽ rung lên dưới bàn tay lướt nhẹ của thiên tài?
============================================

 


Thursday, May 22, 2025

giáo sư Nguyễn Đăng Thục




Giáo sư Nguyễn Đăng Thục
Người Thầy Của Tôi
Phạm Đạt Nhân
(blogspot Phạm Hạnh 2017)


Cô bất tai cô tai cô tai (*)
Tôi xin mạn phép Khổng Tử buông lời bắt chước:
Sư bất tai sư tai sư tai !?
Thầy không ra thầy mà cũng bảo là thầy sao?!
Đã là thầy thì phải có tư cách mẫu mực mô phạm. Còn thầy mà bảo học trò hãy nghe những gì thầy nói mà đừng làm theo những gì thầy làm thì hởi ôi chẳng phải là thầy. Hạnh phúc thay cho những ai có được một người Thầy đúng nghĩa, chính danh.
Tôi may mắn có được cái hạnh phúc ấy.
Thầy tôi là một giáo sư lão thành vừa dạy học vừa viết sách vừa thực sống theo những gì mình nói và viết – suốt một đời làm nghề giáo: Thầy NGUYỄN ĐĂNG THỤC. Cách nay gần bốn mươi năm tôi vừa là học trò vừa phụ khảo, phụ giảng cho thầy. Vào mùa xuân năm 1976 tôi đến thăm thầy và không ngờ đó là chuyến thăm cuối cùng; bởi từ đó đến nay tôi không còn gặp thầy nữa .

Theo phong tục xưa, tôi đến thăm thầy vào mùng ba Tết .
Nơi ở của thầy đúng là cảnh lâm tuyền mà nếp thị thành. Một ngôi nhà ngói cổ đơn sơ tọa lạc giữa một khu vườn rộng trồng cây ăn trái. Ngôi nhà có ba gian . Gian chính thờ Phật, hai gian bên thờ ông bà và tiếp khách. Còn nơi làm việc của Thầy là một căn nhà riêng biệt nằm vuông góc với ngôi nhà. Thầy mời tôi ngồi. Thầy tiếp tôi như tiếp một đồng nghiệp. Tôi ngồi xếp chân ở một bên không trực diện với thầy. Thầy tự tay châm trà, còn tôi đưa hai tay vin vào tách trà. Đó là cách giao tiếp với người lớn mà học sinh ngày đó được dạy như vậy. Sau vài câu chuyện thăm hỏi, thầy đưa tôi sang xem căn nhà làm việc của thầy. Căn nhà có nhiều phòng, trong phòng có nhiều bàn viết, mỗi một bàn viết gánh một tác phẩm đang còn dỡ dang, kèm theo là mớ hồ sơ tài liệu nghiên cứu. Những bài viết của thầy thuộc nhiều đề tài song chung quy là  tinh thần tam giáo đồng nguyên. Tôn chỉ của thầy là đồng quy nhi thù đồ, nhất trí nhi bách lự; quy về chỗ giống nhau nhưng bằng nhiều đường khác nhau. Nhiều cách nghĩ khác nhau nhưng rốt cùng cũng nhất trí với nhau. Với tôn chỉ nầy thì không những chỉ có Nho Phật Lão đông quy mà sẽ có sự hòa đồng giũa triêt lý đông và tây, giữa khoa học và đạo học. Bởi vì “ở phương đông có thánh nhân ra đời thì tâm ấy đồng, ý ấy đồng; ở phương tây có thánh nhân ra đời thì tâm ấy đồng, ý ấy đồng". Nếu đạt được tôn chỉ nầy thì sẽ không có hận thù, không có chiến tranh, không còn khũng bố. Bấy giờ sẽ bốn biển một nhà, năm châu một chợ. Sự hòa đồng trên chỉ có thể thành tựu ở Việt nam. Vì hoàn cảnh địa lý và vị trí đắc địa của Việt Nam là giao điểm cho đồng quy, hòa đồng mọi tư tưởng dị biệt. Việt nam là ngã tư của những nền văn minh trên thế giới (carefour de civilization). Theo thầy thì hai chữ Giao Chỉ, Giao Châu là con đường gặp gỡ (Trung-Ấn Ấn, Á-Âu) chứ không phải là hai ngón chân cái giao nhau như nhiều người lầm tưởng. 
Hoài bảo cả một đời của thầy là xây dựng một nền quốc học cho VN, một nền văn hóa thuần túy VN mà tinh thần tam giáo đồng nguyên là cốt lõi của nền văn hóa đó. Quốc học được xem như một chương trình học bắt buộc giảng dạy ở các đại học. Quốc học được coi như là cái gốc vững chắc để đón nhận những nhánh văn hóa ngoại lai cấy ghép vào. Nếu cái gốc không vững chắc thì sự cấy ghép sẽ không tựu thành, thậm chí có nguy cơ lai căng mất gốc .
Giáo sư Heinrich Zimmer cho rằng nền giáo dục cũng như triết học Á Đông là ở nếp sống chứ không phải ở lý thuyết đầu môi. Điều quan trọng không phải là những gì thầy viết, điều quan trọng là những điều thầy thực sống với những gì đã viết. Điều quan trọng không phải là ngôn thuyết mà là thân giáo. Không phải dùng lời thuyết giáo suông mà lấy bản thân làm gương mẫu, dùng tâm mình để chuyển tánh (transformation). Trong con người của thầy có ba nguồn sinh lực: Khổng, Phật, Lão. Về Khổng giáo, thầy tổ chức gia đình thành một nếp sống nho phong, lễ giáo; hành xử giao tiếp ngoài xã hội với một phong thái điềm đạm, khiêm cung, tín nghĩa, tiết độ. Về Phật giáo ,thầy đã chọn đây là bến đỗ tâm linh; về Lão giáo, thầy sống theo nếp nhàn của Lão Trang ; nhàn nhã tự nhiên trong cái đa đoan bận rộn – lấy cái làm mà không làm, lấy cái không làm mà làm (dĩ vi nhi vô vi, dĩ vô vi nhi vô bất vi) .
Vừa giảng bài trên giảng đường, vừa đảm nhiệm chức khoa trưởng, vừa liên tục cho ra đời nhiều sách, vừa nhận làm patron cho sinh viên cao học v.v …nhưng lúc nào Thầy cũng ung dung tự tại. Chính nếp sống của thầy, tư cách phong thái của thầy đã cảm hóa được biết bao kẻ hậu học: dạy về đạo, viết về đạo, sống trong đạo, không màng danh lợi . Trong bốn mươi năm trong nghề thầy đã cho ra đời trên năm mươi tác phẩm văn học, đạo học, triết học. Học trò của thầy nhiều người đã thành danh .

Những giáo sư giảng viên đại học ngày nay sống thực dụng, vụ lợi hơn là vì lý tưởng giáo dục .Thay vì dành thời giờ nghiên cứu và giảng dạy, họ dạy hết trường này qua trường khác theo chế độ thỉnh giảng. Giáo sư thì lạm phát mà công trình nghiên cứu thì ít oi. Nền giáo dục của ta nghèo học giả chỉ giàu bằng giả. Đó là chưa kể tệ nạn nhận phong bì của sinh viên, nhận lời mời ăn nhậu của sinh viên có nhu cầu xin điểm. Sinh viên biến người thầy thành công cụ để tiến thủ một cách bất chính. Không chỉ ở bậc đại học mà ngay đến bậc mầm non mẫu giáo cũng lắm điều để bàn. Cô nuôi dạy trẻ yêu tiền hơn yêu trẻ; lại có cả bạo hành trẻ. Học sinh lớp một cũng bị cô giáo lùa về nhà để dạy thêm …Một nền giáo dục vụ lợi kiểu nầy thì mong gì tương lai của các thế hệ mai sau. Trong hiện tại, nghĩa ân sư, tình thầy trò bị xói mòn, mai một. Câu nói "dân tộc ta có truyền thống tôn sư trọng đạo" trở nên sáo mòn vô nghĩa. Thầy vô đạo thì trò còn gì để mà trọng, còn ai để mà tôn kính! Chẳng trách học trò ngày nay thất lễ với thầy. Nghề nào cũng phải có đạo của nghề đó. Cái đạo của nghề dạy học là lòng yêu thương học sinh. Không những yêu thương mà còn phải biết trân quý mầm non của đất nước. Nhà vi trùng học Yersin có một câu nói rất hay về đạo làm thầy: Ta đến với một đứa trẻ vì một lòng thương và một lòng kính. Thương vì hiện tại của em và kính vì tương lai của mà em có thể có.
Làm thầy mà không biết yêu thương học trò không biết nâng niu trân trọng tương lai của học trò, không mô phạm chuẩn mực thì đâu phải là thầy!
Sư bất tai sư tai sư tai ?!
Ngày xuân năm nào đi thăm thầy cũ đã gợi lại trong tôi nỗi niềm trắc ẩn trước thực trạng của giáo dục hiện nay. Biết bao người đã mong chờ và tự hỏi không biết trong lần cải cách tới có thay đổi được gì không. Riêng tôi, tôi may mắn có được một người thầy đúng nghĩa, chính danh.
Thầy tôi đã giảng về đạo, viết về đạo và thực sống trong đạo với những gì thầy nói Thầy viết trong suốt cuộc đời làm nghề dạy học!
 T
Cô là cái cốc uống rượu có góc vuông. Về sau cốc uống rượu không có góc vuông nữa vẫn được gọi là cô. Trong thuyết chính danh Khổng Tử than: Cốc không là cốc, cũng gọi cốc sao, cũng gọi cốc sao ?

Monday, May 19, 2025




   May Mà Ta Còn Có Em ..... và Sài gòn và Thủ Đức

Trần Hoài Thư

Bởi vì, em đã đến với ta khi ta không còn gì hết. Ta đã nói khi ta vào ngôi trường của chiến tranh có nghĩa là ta không còn là ta nữa. Cái tôi của mình đã bị tước đoạt từ thể xác đến tâm hồn. Người ta đang cố biến tập ta thành một người máy. Nhưng ta vẫn còn trái tim. Bởi vì trái tim mà ta đã có mặt. Trái tim bắt ta phải lên đường, phải chấp nhận cái định mệnh của thế hệ sinh và lớn lên trong chiến tranh. Trái tim nâng bước chân ta khi ta muốn quỵ, đỡ ta lên khi ta muốn ngã. Trái tim làm ta biết phẫn nộ, sôi sục như quả trái phá, cuồng nhiệt đam mê như hít hà da thịt yêu ma. Trái tim dạy ta phải yêu núi yêu sông, phải hy sinh bản thân, dù ta rất sợ khi phải nói về những mỹ từ tâm lý chiến. Trái tim khiến ta bò đến mục tiêu khi hai cùi chỏ ta trầy trụa. Trái tim mềm yếu vô cùng nhưng cũng mạnh mẽ vô cùng. Và cũng vì trái tim, ta mới yêu em. Mới thương em hơn bao giờ. Ta gặp em khi nào. Ta đâu có tài tán gái. Ta cũng chẳng phải đẹp trai. Ta gầy còm hom hem, mắt nặng độ, gió mạnh thổi muốn ngã. Ta đã được hoãn dịch vì lý do sức khoẻ mà. Thế mà em đã đến với ta, bằng tất cả tâm hồn. Cảm tạ em, cảm tạ Sài Gòn. Nhớ em, phải nhớ Sài Gòn. Phải nhớ chiếc áo dài trắng, và mái tóc cắt demi garçon mà em mang đến. Nhớ em, nhớ hơi hướm như còn vướng lại trăm năm. Nhớ em, đôi vai nào nhỏ bé mềm mại, hàm răng nào trắng như hạt lựu, đôi mắt nào lung linh dưới nắng, đôi môi nào như mềm ướt và thân thể nào nóng bỏng thịt da.

Nhớ em, em Sài Gòn, hôm nào, tên ta được gọi. Trời ơi, ai đó cà. Ai như từ tiền thân vì ta phải đọa. Ai lựa tên ta mà bốc nhằm. Ai đến với ta khi thiên hạ bỏ ta mà chạy mà xa. Ai thả chiếc cầu để ta được cơ duyên mà chụp. Cám ơn em. Cám ơn Tăng Nhơn Phú. Nhờ Tăng Nhơn Phú ta mới được gặp Sài Gòn. Cám ơn trong địa ngục ta vẫn còn thấy được thiên đàng. Trong lò luyện thép ta còn hứng được một cơn mưa ân sủng. Có phải em là Gia Long. để anh thèm mưa rất nhỏ. Có phải em là Trưng Vương để anh thèm hoa phượng nở… Không, ta chỉ tưởng tượng viễn vông để làm một bài thơ mà ta chưa bao giờ cảm nhận để cho đời đở buồn. Cái tưởng tượng như ông Tố Hữu (ông lành mà dạ chẳng lành) hay những ông nhà văn nhà thơ ngồi trong tháp ngà tưởng tượng để cả thế hệ con cháu các ông đều tưởng thật, xem là chân kinh, để rồi lao về phía trước như bầy thiêu thân.

Nhưng ta xin thề, ta rất thật thà với em, em của trái tim Sài Gòn, giọng nói Sài Gòn, mái tóc Sài Gòn, má lúm đồng tiền Sài Gòn, mềm mại mà nồng cháy, yếu đuối mà cuồng nộ đam mê… Bởi rõ ràng như hôm qua, em ngồi đấy, trên tấm vải nhựa ở khu thăm nuôi. Nắng Tăng Nhơn Phú đẹp não nùng bởi vì có nắng Sài Gòn em mang đến. Em gắp cho ta thức ăn như người vợ chiều chồng. Trời ơi, từ khi sinh ra đến giờ, ta có bao giờ được ai chiều chuộng như em. Số ta là số du thủ cô hồn, hoang đàng phóng đảng. Số ta lê la đầu đường xó chợ, số ngủ bờ ngủ bụi mà. Số ta, sinh ra đã nghe tiếng hí kinh hoàng của con ngựa chứng. Số ta, số luôn luôn bom đạn, thù hận, tai ách do từ những thằng già ngồi trong tháp ngà mơ tưởng đến thiên đường và bọn thực dân phát xít luôn luôn rình mò tìm cách xâm lược. Số ta, cha mẹ chia lìa, cha con một người một ngã, nhìn đâu cũng thấy máu, máu, và máu. Số ta, đêm trốn chui trốn nhủi dưới gầm bàn, xó nhà để tránh đạn, tránh bố ráp… Số ta, tiếng khóc đầu tiên không phải là khóc cho một kiếp người mà là tiếng khóc của một thế hệ sinh ra trong thời ta bà mạt kiếp. Số ta, cái số thế hệ chiến tranh, số rớt tú tài anh đi trung sĩ… Số ta, như vậy mà em còn thương ta, thì tâm em là tâm bồ tát rồi. Ta đã nói trăm lần, ta phải cảm tạ Tăng Nhơn Phú. Bởi vì nhờ Tăng Nhơn Phú mà ta được yêu Sài gòn và được yêu em. Nhờ có Tăng Nhơn Phú mà bỗng dưng Sài Gòn trở nên gần gũi, mà gặp em trong chuyến xe về muộn. 

Trăng đã lên trên khu Hàng Xanh.
Sài Gòn Gia định chia trăm ngã.
Có ngã nào em hiểu tình anh…

Nhờ có Tăng Nhơn Phú mà trước lạ sau quen con gái Sài Gòn qua thơ Nguyên Sa, qua văn Duyên Anh. Ôi Tăng Nhơn Phú, đồi gian khổ mồ hôi, may mà trên bầu trời vẫn còn có những vì tinh tú sáng để ta còn nhìn về phía Sài Gòn, mà mong mà nhớ. Nhờ có Tăng Nhơn Phú, mà ta mới đổ mồ hôi để còn có em đem cho ta cơn gió mát. Nhờ có Tăng Nhơn Phú mà em đã tìm đến ta, vào ngày cuối tuần, mang theo những món đồ thăm nuôi rải theo nước thánh. Ta ăn dù chua, cũng thành ngọt, dù cứng cũng thành mềm… Em hỏi ta có cực không, khiến lòng ta tở mở: Thấm tháp gì. Ta bị phạt 50 lần hít đất nhảy xổm vì tội để giày bẩn, nhưng ta phóng đại bị phạt cả trăm lần… Làm như Thủ Đức như một lò luyện thép… Rồi em cứ bắt ta kể chuyện quân trường. Em nói là mỗi lần em đọc Nhật Ký Quân trường của ta trên nguyệt san bộ binh là mỗi lần em khóc. Em thương các anh sinh viên sĩ quan Thủ Đức quá. Em càng làm ta kiêu hãnh. Như vậy mà ông đại đội trưởng lại cứ phạt ta dài dài. Như vậy mà đám sinh viên sĩ quan cứ nhìn ta nói bóng nói gió: Nguyệt san Bộ Binh không muốn mua cũng phải bị ép mua. Trời ơi, ta đâu có cái thẩm quyền mà nói hờn nói mát như vậy. Ta viết bài, chẳng những không có nhuận bút mà cũng bị trừ lương, 8 đồng một số. Trời ơi. Ta mang mồ hôi của ta của bạn bè để nhỏ lên trang giấy để các em gái hậu phương còn yêu tha thiết các người mà. Sao lại trách ta đồng lõa. Sao đại uý S. cứ ghen tức vì ta được miễn ngày thứ tư đi bãi để lên họp ở Khối Chiến Tranh Chính Trị hay về Hội quán nhìn em. Tim đại úy là tim đồng tim sắt, làm sao còn biết cái hay của bài thơ Luân Hoán, Nguyên Sa, Cao Thoại Châu, những người thơ cùng khoá của ta? Sao đại úy cứ đì ta đến tả tơi, tơi tả…chỉ vì ta có cái tội là viết báo bộ binh?

Còn em. Em Sài Gòn, thiếu gì chàng công tử mà em lại lặn lội chọn ta. Em nâng khăn, nâng bát, nâng chén, mời ta. Có phải em là lan của vườn hoa bách thảo… Thì vâng. Em là lan. Cành lan mong manh đã nở một đoá hoa vàng rực rở trong hồn ta bát ngát. Mấy mươi năm rồi, nhớ lại em, lòng ta bỗng dưng ấm áp lạ lùng. Nhớ đôi mắt ai lung linh, chẳng hiểu vì nắng Tăng Nhơn Phú đã tắm đầy đôi mắt ấy, hay vì khi yêu ai, ta cứ một mực tôn sùng. Nhớ em, làm sao quên được những lần ta chạm tay, vô tình hay cố ý. Con tim già nua của ta bây giờ cũng phải đập bấn loạn như hôm qua. Con người nhiều khi chỉ cần sống một giây, một giây mà thiên thu bất tận, mà hoan lạc cuồng si, mà mắt sẽ mở trừng, và lòng thì mãn nguyện để mà nhắm mắt như cái giây khắc mà con bướm đực động tình giao hoan trước khi rụng xuống mà chết.

Vâng, may mà có em, đời còn dễ thương. Thơ Vũ Hữu Định tuyệt vời như thế mà sao văn học sử không dành cho bạn ta một chỗ đứng. Nhưng cần gì, trong tim em, tim ta, tim những thằng trẻ tuổi của một thế hệ chiến tranh đã in khắc những câu thơ tuyệt vời ấy rồi. Bởi nó là nỗi lòng đích thật của một thế hệ bị mất mát quá nhiều, bị trù dập quá nhiều. Hỡi các ông soạn sách văn học sử, các ngài hàn lâm khoa bảng.. Các ngài chỉ bắt bọn trẻ học về Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, giòng thơ mới, những kẻ đang ở ngoài Bắc, trong khi những thần tượng của chúng tôi, mỗi ngày nặn óc nặn tim để sáng tạo ra những bài thơ phanh thây uống máu bọn trẻ chúng tôi trong Nam. Các ngài chỉ dựa sách vở để lý luận, tham khảo những tài liệu mốc xì, lỗi thời từ Socrate đến Jean Paul Sarte, các ngài làm sao biết những trang bản thảo được viết dưới hầm, trong bóng đêm dưới ánh đèn pin quân đội, trong bệnh xá, ngoài bãi, trên Trường Sơn, trong sình lầy. Các ngài đâu có hiểu cái dấu chấm dấu phết trở nên vô nghĩa khi hơi thở bị hụt hẩng, khi nỗi lo âu bị đè nặng…

Các ngài đâu có hiểu tại sao lại đốt hết cả văn chương thời chiến của chúng tôi. Bởi vì họ không dám cho những người thuộc hàng ngũ của họ thấy được sự thật của những kẻ mà họ nói rằng: Giết cả trẻ sơ sinh hay hãm hiếp ăn thịt người. Bởi vì họ không dám cho dân họ thấy rõ về một nền văn học nhân bản, mà chúng tôi đã chuyên chở trong những tác phẩm của chúng tôi. Bởi vì họ sợ sự dối trá của họ bị lột mặt. Đấy. Thế hệ chúng tôi là thế. Chiến tranh cướp mất tuổi trẻ đã đành, còn văn chương, văn học chuyên chở cả nỗi lòng của tuổi trẻ cũng bị cướp đoạt tiếp. Chưa kể những tai ương ghê gớm khác mà thế hệ chúng tôi phải gánh chịu sau ngày ngưng tiếng súng: tù tội, trả thù, và cái bản án vô hình ghê rợn: ngụy.

Đấy. Tuổi trẻ của chúng tôi là thế. Của những kẻ ưởn ngực vừa chạy vừa gào xung phong để cho các ngài làm văn hóa, dạy văn hóa, suốt ngày chỉ la lên: Yêu là chết ở trong lòng một tí… trong khi chúng tôi muốn yêu mà không được yêu, đã có yêu rồi nhưng lại ngăn cách chia lìa. Các ngài chỉ biết rung đùi thưởng ngoạn những giòng văn học ngoại lai, các ngài làm sao hiểu được cái tiếng gọi buốt xoáy trong trời đất Việt Nam: em hỏi anh bao giờ trở lại. Xin trả lời mai mốt anh về… Anh trở về với đôi nạng gỗ. Anh trở về bại tướng cụt chân… Các ngài chỉ rung đùi cùng những trang cổ thư quân tại tương giang đầu thiếp tại tương gian vĩ hay tự hãnh diện đầy bồ chữ Mỹ chữ Tây… trong khi không có một nơi nào như phần đất Việt Nam này, mà tuổi trẻ già cả trăm năm, mà mỗi cá nhân là một chứng nhân sống để phán xét về những chủ nghĩa lý thuyết mà các ngài tự hào là những kẻ thông thái. Các ngài không lấy vết sẹo ra để mà làm tài liệu, những giọt nước mắt ra làm chứng từ, mà chỉ lấy kinh nghiệm của những ông Tây ông Mỹ. Ông Tây ông Mỹ có thở như chúng tôi đã thở? Ông có sống như chúng tôi đã sống? Ông có thấy như chúng tôi đã thấy? Các ông có bao giờ đứng bằng cặp giò cụt? đã vác thập tự giá như chúng tôi đã vác? Có viết những trang bản thảo mà phải trùm mền, trùm poncho dưới ánh đèn pin quân đội? May mà có em đời còn đời còn dễ thương. Cám ơn nhà thơ. 

Bởi vì nếu không có em, chắc bước chân ta sẽ phải thất thểu trên những vĩa hè Sài Gòn để mà tủi thân. Bởi vì không có em làm sao ta hiểu được một Sài Gòn độ lượng bao dung, con gái từ tâm cho mà không cần đặt câu hỏi. Ôi Sài Gòn, ta tự hào hãnh diện có bộ ngực mềm mại, có bờ vai nhỏ bé, có con tim như vang những tiếng chuông chùa nhà thờ… Cần gì sắc đẹp nghiêng ngửa não nùng. Các em ấy đã có phần hết rồi. Bởi Sài Gòn nhiều tướng tá lãnh tụ, chính trị gia, nhà văn nhà thơ tài hoa, tài tử đóng phim đẹp trai, những chàng trai mặc đồ bay, súng rouleau hoa mai trắng… Còn ta chỉ là thằng đang chuẩn bị trở thành một trung đội trưởng bộ binh, chẳng biết nhảy đầm, hay biết lái xe để đưa em dạo phố. Ta chỉ có đôi chân. Đôi chân sẽ lội bộ, sẽ trèo đèo vượt suối, sẽ chạy sẽ ngập sình sẽ dẫm trên từng tấc đất đầy tai họa. Đôi chân sẽ dẫm trên từng tấc đất của quê hương, cho dù một ngày nào đó, sẽ bị què bị cưa bị cụt. Đôi chân chống lấy thân người nhưng cũng chống đỡ những hòn đá nặng của lịch sử.

Và con tim. Con tim đang thì thầm, em có nghe không đấy. Nó đang nói về một niềm hạnh phúc. Bởi vì tuy gia tài của một tên thanh niên không có gì hết, nhưng em có nghe tiếng còi tàu từ hướng sông Sài Gòn đang vọng về như chúc mừng chúng ta, và trên bầu trời, muôn vàn tinh tú, sáng lung linh, gần nhau, sát nhau, như anh và em. Như buổi chiều Sài Gòn trời đổ cơn giông, ôi cơn mưa ân sủng không ngờ một ngày chúng trở thành những cơn mưa vĩnh cửu:


Anh còn lại đây một chiếc poncho
Anh xin trải ra cho em ngồi đỡ.
Em thấy gì không, thiên nhiên cây cỏ .
Có cả bầu trời xanh biếc trên cao.
Có tiếng cúc cù của đôi chim cu.
Có loài bông rừng thơm tho trong gió.
Sài Gòn dù phố xanh phố đỏ.
Ở đây cũng yêu mến lạ thường .
Vẫn cõi đất trời vô lượng bao dung.
Vẫn bờ cỏ mềm hơn thềm nhung lụa .
Nắng hôn nhẹ trên những tàn cây nhỏ.
Lá cũng thì thầm bài hát yêu nhau.


Anh cũng thì thầm, một bông ngọc lan vừa mới nở trong hồn anh bát ngát
Hãy cho anh thử nhìn lên đôi mắt
Để biết rằng đời quá đẹp, dễ thương.
Sài Gòn buổi chiều trời chuyển cơn giông.
Cơn mưa vội, bay qua trời Thủ Đức.
Anh qua Nhà Ăn chui rào Thiết Giáp
Biết gì hơn, mang một chiếc poncho
Anh không có nhà, để em trú mưa.
Chỉ chiếc poncho trùm đầu hai đứa.
Chúng ta hôn nhau, dưới trời mưa thác.
Mưa Sài Gòn. Mưa xa lộ.
Mưa. Mưa …
Mưa loạn cuồng như hai kẻ sắp xa
Bấu chặt lấy giờ cuối cùng sắp mất

(Thơ Trần Hoài Thư)

Em có lạnh không, em cứ nép vào ngực anh, vào vai anh, và cứ nhắm mắt. Đừng nghĩ. Đừng bận tâm ngày mai. Em yêu dấu của anh./.

(Trích “Thủ Đức Gọi Ta Về“)

===============================================






Saturday, May 10, 2025



ANH BA CỦA TÔI
Louis Mishima * Germany
Trong hai người anh lớn, tôi chỉ biết anh ba tôi, vì anh hai tôi tử trận năm 1969, khi tôi mới được hai tuổi. Tất cả những gì tôi biết về anh hai chỉ là những mẩu chuyện mẹ tôi kể (không bao giờ hết!) và những tấm hình đã hoen ố của anh trong đồng phục lính, trong quân trường Đồng Đế và lúc anh ẵm tôi trước khi nhập ngũ lúc 20 tuổi.

Ngược lại, anh ba tôi là một người thật là đặc biệt đối với tôi vì anh không bao giờ la tôi mà lại bao che cho tôi khi bị 2 người chị lớn la thậm tệ khi lười học hay phá. Và đặc biệt hơn là lúc nào khi về phép anh lúc nào cũng chở tôi ra bến Bạch Đằng chỉ cho tôi coi những tàu chiến và kể cho tôi nghe trong đó có gì. Tôi chỉ nhớ là tôi nể và mê chiếc tàu 505 lắm. Sau đó anh dẫn tôi đi ăn kem, mua thật nhiều truyện hình Lucky Luke hay coi xi nê. Một lần anh còn mặc quân phục trắng hải quân (tôi cũng mê luôn!) hỏi tôi muốn lên một chiến hạm coi chơi không. Tôi nhớ còn nghi ngờ anh chọc tôi thì thấy anh đi lại nói gì với mấy người thủy thủ gác ở đó, rồi vẩy tay kêu tôi lại, dắt tôi lên tàu đi một vòng. Từ đó anh ba tôi là người hùng, thiên thần đối với tôi.

Nhưng với ba tôi anh là nổi lo lớn nhất vì (theo lời mẹ nói) tánh anh ngang tàng và bướng bỉnh. Mẹ tôi nói cũng vì vậy mà lúc nào cũng nằm lon trung uý, anh cải lại, tại anh không thèm lên lon! Lúc đó khoảng sáu hay bảy tuổi ngồi “hóng” chuyện tôi thấy anh ba tôi đúng, người hùng là phải ngang tàng, không thèm chứ không phải không muốn. Và anh là người duy nhất trong nhà đi chơi về khuya. Mẹ cằn nhằn anh đi khuya (tôi thường nghe vì còn được ngủ với mẹ) thì anh ưa vừa cười vừa nói “con vượt bao hải lý bây giờ con mới được lắc lư con tàu đi”. Sau này lớn anh mới kể là anh thường đi vũ trường mỗi lần về phép.

Ngược với ba, mẹ tôi thương anh nhất. Chị tôi nói chắc tại mẹ sợ mất anh một lần nữa như anh hai vì tính anh không những ngang bướng mà còn táo bạo nữa.

Rồi có một thời gian rất là lâu anh không về phép nữa, tối nào cũng thấy mẹ tôi lên phòng thờ, thắp nhang bàn Phật, nước mắt chảy dài. Tôi chỉ đi theo, đứng nhìn mà không dám hỏi tại sao. Lúc anh về lại anh không còn vui kể đủ thứ chuyện như trước nữa, tôi thấy mặt anh trầm và buồn mặc dầu anh vẫn chở tôi đi ra Sài Gòn ăn kem. Lúc đó tôi cũng không dám hỏi, chỉ thấy anh ít vui hơn. Sau này lớn tôi mới biết lúc đó anh đi đánh trận Hoàng Sa về. Và anh cũng chẳng bao giờ kể cho ai nghe nữa.

Mẹ tôi sau đó vẫn tối nào cũng thắp nhang bàn Phật. Có lần tôi hỏi sao anh ba “kỳ kỳ” vậy, mẹ tôi chỉ nói “tại bạn hắn chết nhiều”.

Ngày 30.4.75 anh ba tôi vẫn còn trong căn cứ và về nhà lúc giữa đêm. Mẹ tôi vừa mừng vừa khóc và từ đó mẹ tôi khóc tiếp vì anh cho đến khi anh vượt biên được năm 1979, sáu tháng sau khi ra tù.

Khi ra tù về lúc đó tôi thấy anh “kỳ” thiệt ngoài ra trên hàm răng cửa anh chỉ còn mấy cái và thấy méo mó khi anh cười và cái cười không như tôi nhớ nữa. Anh trở nên trầm lặng và dể cáu kỉnh. Anh cũng không chở tôi ra Sài Gòn chơi nữa, mà đúng ra lúc đó đâu còn gì nữa để vui và chơi. Từ từ tôi bắt đầu thấy sợ sợ anh và nhất là những lúc anh nói chuyện nhỏ với ba và mẹ tôi, mặt ba và anh tôi lúc đó đăm chiêu và nước mắt mẹ tôi cứ chảy hai hàng. Tôi lúc đó khoảng 12 tuổi chỉ hiểu là có chuyện gì qua trọng lắm hay sắp có thảm hoạ xảy ra, nhưng mà sao hoài vậy?! Sau này tôi mới biết là đó là bàn chuyện vượt biên của anh ba và anh năm.

Tối ngày nào đó anh ba dẫn anh năm đi, tôi thức dậy, chỉ nghe kịp anh ba nói với mẹ tôi “con đi nha mạ”, không ngủ lại được tôi chỉ thấy nước mắt mẹ tôi lại chảy hai hàng rồi lên thắp nhang. Hôm sau tôi chỉ được biết là hai anh tôi đi thăm cậu ở Đà Lạt. Khoảng một thời gian dài sau có người bưu điện tới phát điện tín và lần đầu tiên tôi thấy mẹ và cả ba tôi vừa khóc vừa cười (chưa bao giờ tôi thấy ba tôi khóc). Người cuối cùng được đọc điện tín là tôi, chỉ có một câu vỏn vẹn “con tới nhà cậu rồi”. Lúc đó tôi nghĩ trong đầu “có vậy và cũng rùm beng!”

Bây giờ với hai đứa con, tôi cũng chưa hiểu được từ đâu mẹ và ba tôi từ đâu có sức chịu đựng những mất mát như vậy.

Một năm sau tôi và anh kế vượt biên, gặp lại anh ba và anh năm ở Đức, anh ba tôi vui vẻ lại một phần nào khi trước 75, đi làm với anh năm đủ thứ việc để giúp hai đứa em nhỏ và tìm cách gởi đồ về cho gia đình mỗi tháng và anh ba giống như kim chỉ nam trong chuyện học hành và cư xử. Mặc dầu anh không giúp được gì nhiều trong chuyện học nhưng hướng đi và cách cư xử anh lúc nào cũng khuyên nhủ, nhắc nhở, không được thì… “quyền huynh thế phụ”! Và những cuối tuần được dắt đi chơi lại có lại, nhưng anh kể chuyện nhiều hơn, chuyện trong thời lính, chuyện lúc đi tù, những cách khủng bố tinh thần và thể xác trong tù, những cách làm cho bạn tù chỉ điểm và đấu tố nhau. Anh kể nhờ có đọc truyện “Tầng Đầu Địa Ngục” của Solzhenitsyn nên anh không bị mắc bẩy. Sau đó anh vào tiệm sách mua cho tôi cuốn truyện đó bằng tiếng Đức (Gulag).

Chỉ có một chuyện anh không bao giờ kể rõ và tìm cách cho qua khi tôi hỏi là lúc anh đánh trong trận Hoàng Sa. Đến bây giờ tôi vẫn chưa biết và sẽ không bao giờ biết vì anh ba đã mất cách đây vài năm.

Tôi nghĩ đó là vết tì rất lớn trong tâm hồn anh.

Xuất xứ FB Bảo Tồn Tiếng Việt * May 2, 2025.  Anh Ba Của Tôi