add this

Friday, October 31, 2025

Hưng Yên đuổi dân làm sân golf


Lễ khởi công sân golf Trump Organization, Hưng Yên 


ĐUỔI DÂN LÀM SÂN GOLF CHO TRUMP


HƯNG YÊN, August 11 (Reuters)  
Bà Nguyễn Thị Hương, nông dân, ngủ không được vì vừa nhận lệnh của chính quyền phải dọn nhà đi để làm sân golf và khu nghỉ mát của gia đình ông Trump; bà sẽ được bù trừ 3,200 đô la và một số gạo. Sân golf nầy sẽ bắt đầu xây dựng trong tháng chín sắp tới. Chủ nhân dự án sẽ bồi thường cho mấy ngàn dân làng số tiền và vật phẩm như trên để giao lại đất đai đã canh tác mấy chục năm nay để sinh sống.

Đây là dự án hợp tác kinh doanh đầu tiên của gia đình ông Trump, ký kết một cách dễ dàng nhanh chóng ở Mỹ.
990 mẫu dự định làm sân golf hiện là các nông trại trồng trái cây như chuối, long nhãn và các hoa màu khác. Một số ít người mong chờ cơ hội mới nhưng đa số dân làng đã lớn tuổi lo ngại không biết sẽ sinh sống thế nào trong nền kinh tế mới nhiều giao động. Bà Hương, 50 tuổi, nói rằng cả làng lên ruột vì dự án sẽ lấy hết đất và trở nên thất nghiệp; bà được lệnh bỏ lại hai công đất (200m2) ở Hưng Yên cạnh Hà Nội, đổi lấy số tiền ít hơn nửa năm lương của một công nhân trung bình.
Công ty địa ốc Kinhbac City sẽ thực hiện sân golf nầy sau khi trả cho gia đình Trump 5 triệu đô để giữ giấy phép chính quyền Hà Nội cấp.
Gia đình Trump sẽ điều hành câu lạc bộ nầy khi nó hoàn tất nhưng không lo việc bồi thường cho nông dân.
Ông Trump nói tài sản trong thương vụ nầy được giữ trong một "trust" của các con của ông nhưng sổ sách kế toán cho biết các nguồn lợi nầy đi vào túi của ông Trump.
Chính quyền sẽ ấn định biểu suất bồi thường và sẽ công bố chính thức. Tuy nhiên 5 người bị truất hữu đã được thông báo một mét vuông sẽ được đền bù từ 12 đến 30 đô la tùy địa điểm.
Trong lúc ấy, một viên chức hữu quyền nói rõ hơn, tô suất bồi thường xưa nay không quá 14 đô một mét vuông.
Trong nước VN cộng sản, ruộng đất được quản lý bởi nhà nước. Nông dân được phép canh tác dài hạn trên những miếng đất nhỏ; nhà nước lấy lại thì chỉ ra lệnh, không cần dài dòng giải thích.
Bà Hương đã thuê lại một khu đất rộng hơn phần của bà để canh tác nhưng bà chỉ được bồi thường miếng đất nhỏ nhà nước cho làm phương tiện sinh sống.
Trong buổi lễ khởi công có sự tham dự của Eric Trump đại diện Donald Trump, thủ tướng Phạm Minh Chính nói rằng nông dân sẽ được bồi thường thỏa đáng. Nhưng nông dân không có quyền thương lượng theo giá thị trường, đồng loạt chỉ 12 đô một met vuông. Ông Đỗ Đình Hường, một nông dân khác, nói dân chúng sẽ vui vẻ nhận ít tiền nếu vườn đất của họ dùng làm đường hay tiện ích công cộng. Nhưng đây làm giàu cho ông Trump, người vốn đã giàu.
Trị giá địa ốc tăng năm lần ở các nơi ngoài 990 mẫu dự định. Ông Lê Văn Tư có cái quán ăn ngoài rìa cho biết sẽ sửa phạn điếm nầy thành nhà hàng cơm nước hầu hạ cho giới giàu sang, hiểu ngầm sẽ kiếm ra nhiều tiền; ông khoái chí cái trại heo gần nhà sẽ mất tiêu khỏi hôi thúi. Kính màu hồng của ông Tư được cung cấp bởi các luật sư và nhà đầu tư trong dự án nầy và, dĩ nhiên, chính quyền.

◙ Ghi chú của người dịch:
Năm 2024, khi Donald Trump chiếm đa số phiếu và chưa nhậm chức, chính quyền CS tỉnh Hưng Yên đã gởi đại diện đến gặp "the President-elect". Vài ngày sau, phái bộ nầy và con trai thứ của Trump, Eric Trump, đã ký giao kèo thành lập khu golf và resort ở Hưng Yên, vốn đầu tư 1,5 tỷ đô. Trump đã ngồi chụp hình chung mừng con trai thành công trong thương nghiệp. Ông nói đây là thương vụ của Trump Organization, của gia đinh Trump mà Chairman là con trai trưởng Donald Trump Jr. Tổng thống chưa nhậm chức không cho biết vai trò của ông trong tổ chức nầy. 
Thủ Tướng Hà Nội đã khai mạc lễ đặt viên đá đầu tiên cho thấy partnership nầy là phương cách mua lòng tân tổng thống HK. Hai bên đã phải thương thảo từ lâu vì khế ước đầu tư lớn quá bạc tỷ không thể soạn trong vài ngày.
Lần bầu cử trước 2016, khi Trump chưa nhậm chức, một luật sư Mỹ đại diện quyền lợi sòng bạc của Trump đã đến Saigon đề nghị biến Thủ Thiêm thành Macao hay Las Vegas thâu nhỏ, nghĩa là gồm những sòng bài. Ông nói đi Saigon là ý kiến riêng, ông thấy tiềm năng rất lớn: Trump đã có kinh nghiệm sòng bài nay lại có quyền trong tay; đẻ ra, Trump đã là businessman. Thủ Thiêm không phát triển theo chiều hướng nầy.
Tám năm sau, kỹ nghệ ăn chơi đi theo một diễn trình ngược lại, dùng chính quyền chơi với chính quyền. Đại diện Hưng Yên đã đi sứ.
Trump và tổ chức Trump cho biết không đảm trách bồi thường nhưng vốn đầu tư dành 1/3 (500 triệu) cho việc nầy. Chính quyền VN trở nên nhà thầu, dùng quyền lực và pháp chế công hữu để đuổi dân, chi tiêu ít lại, còn thì bỏ túi. Có chửi thì chửi, đừng động tới Trump; có sừng có mỏ thì gõ với nhau.
Việc làm ăn của các con nhà Trump là chuyện tự nhiện; cô con gái đầu của Trump và người chồng gốc Do Thái trong thời gian Trump tại vị đã trở thành tỷ phú. Cũng như con gái của Bill Clinton hiện đi chiếc xe mắc nhất thế giới, có nhà cửa dinh thự. Obama có cái nhà nghỉ mát đang rao giá bán 36 triệu. Con của Trump khôn ngoan đã đầu tư, làm việc với chính quyền các nước tự lo đối đầu với dân chúng, nhưng sau lưng chúng có một bố già được ca ngơi là vô vụ lợi (sic, sic, sic...)




Thursday, October 30, 2025

cổ sử VN viết theo sách Tàu


ấn tín Văn Đế Hành Tỷ

CỔ SỬ VN KHÔNG MANG KÝ ỨC LỊCH SỬ
The Absence of Historical Memory in Early VN
Lê Minh Khai • 2012 • ttt dịch

Các học giả VN thời Trung Cổ viết những bộ sử đầu tiên về Châu Thổ Hồng Hà đều theo nguyên tắc chính trị nối tiếp chính thống
正統.

'Đại Việt Sử Lược' bắt đầu đường nối tiếp nầy với Triệu Đà. Triệu Đà gốc nơi bây giờ là tỉnh Hồ Bắc và thành lập một vương quốc trong vùng bây giờ là tỉnh Quảng Đông và xưng hoàng đế vào cuối thế kỷ 3 trước công nguyên.
Sau đó, sứ giả nhà Hán đã thuyết phục Triệu Đà ngưng việc dùng danh hiệu hoàng đế. Người kế vị của Triệu Đà được sử Tàu và Đại Việt Sử Lược ghi là Văn Vương. Vương là tước hiệu được chấp nhận dành cho thủ lãnh một vùng dân cư chịu thần phục nhà Hán đúng như điều Triệu Đà được yêu cầu thi hành.
Tiếp theo, Đại Việt Sử Lược đem việc kế nghiệp chính thống nầy lùi vào lịch sử đến vị vua thần thoại là Kinh Dương Vương. Từ Kinh Dương Vương qua các vua Hùng rồi đến Triệu  Đà. Triệu Đà đã bỏ tước vị hoàng đế và truyền ngôi cho Văn Vương. Sử Việt không những theo đúng lịch sử các triều đại tiền sử của Tàu mà nhiều đoạn chép nguyên từng chữ.
Vậy, phải chăng Đại Việt Sử Lược và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư là một phần bộ của truyền thống lịch sử nước mình? hay là các sáng tác thời Trung Cổ dựa trên các tài liệu bằng chữ viết của Trung Hoa? Nói khác, phải chăng các bộ sử ấy dung chứa một phần nào ký ức lịch sử hay chỉ được đúc kết từ những gì các học giả Trung Hoa đã viết thành chữ?

Khoa khảo cổ có thế giúp một tay để trả lời. Trong thập niên 1980, các nhà khảo cổ Trung Hoa đã khai quật huyệt mộ mà họ tin của người kế vị Triệu Đà tức là Văn Vương. Vô cùng ngạc nhiên, họ tìm thấy chiếc triện 文帝行璽 Văn Đế Hành Tỷ.
Trong khi sử sách Tàu và Việt minh định rằng Triệu Đà đã từ bỏ tước vị hoàng đế, khảo cổ cho thấy người kế nghiệp của Triệu Đà vẫn dùng tước hiệu nầy.
Như đã nói trên, sử Việt đầu tiên được soạn thảo theo nguyên tắc chính trị, theo đó các triều đại kế tiếp theo một mạch chính thống. Nhưng sự kiện Triệu Đà xưng hoàng đế rất quan trọng, ông là người đầu tiên ở phương Nam làm việc nầy, ra ngoài đường lối chính thống. Tại sao sách sử của hai nước không cho biết thừa kế của Triệu Dà dùng tước hiệu nầy?
Lý do: sử gia không có 'ký ứ
c lịch sử'; truyền thống ký ức lịch sử không có trong vùng. Đại Việt Sử Lược và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư là những sản phẩm của một diễn trình chế biến lịch sử thời Trung Cổ, không dung chứa ký ức lịch sử.
Nếu sử Việt không nhớ Văn Đế thì làm sao nhớ các vua Hùng xuất hiện trước Triệu Đà?

◙ Ghi chú của người dịch:
Một bài viết chung của tác giả và Đinh Hồng Hà có đoạn nói thêm đường dây kế nghiệp còn kéo đến Thần Nông:
trích:Trong khi quan niệm quốc gia, giống nòi, là những đề tài sôi sục ở Âu Châu, giới ưu việt cai trị ở VN chú trọng đến phả hệ chính trị, kết nối triều đại đương thời vào chuổi kế nghiệp chính thống từ một hoàng đế thần thoại là Thần Nông. Thân thế của Thần Nông và các vua kế nghiệp được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, thế kỷ 15. Thời điểm nầy cách xa mấy ngàn năm, tính từ thời gian giả định Thần Nông có thật. ngưng 
Giới ưu việt là tầng lớp sĩ tử, giới trí thức Hán hoc, phần lớn làm quan triều Nguyễn. Mãi cho đến gần đây, thập niên 1930, Nhiếp Chánh Vương Tôn Thất Ngân lập lại phả hê chính trị nầy lên đến Thần Nông trong một luận văn Hán Tự.

=========================================

cô đơn Saigon xưa

=====================================




Monday, October 27, 2025

bình đẳng và đẳng bình




BÌNH ĐẲNG và ĐẲNG BÌNH
Tôn Thất Tuệ

Vào mùa Thế Vận Hội 2024 ở Paris, vài Facebook đăng bài "Đừng cười cợt vội" của Phạm Gia Hiền, mở đầu như sau:
"Chỉ sau 46 giây thượng đài, Angela Carini (Italy) đã phải giơ tay xin thua đối thủ người Algeria - Imane Khelif, võ sĩ từng bị cấm thi đấu ở giải vô địch thế giới năm 2023 vì có hormone sinh dục nam quá cao". Bài báo nêu rõ những sự vô lý mà giới quyền anh đã áp đặt cấm Khelif dự tranh. Bài kết luận việc cho cô nầy lên đài chính là nguyên tắc bình đẳng: Angela và Imane đều là con gái đúng như trời sinh, không có cái vụ chuyển thành nam giới; thắng thua là chuyện bình thường".
Lúc ấy đọc xong tôi có cảm nghĩ khác, ra ngoài các lý luận pháp lý. Bình đẳng thì đúng rồi; bình đẳng chúng ta đã quen như khẩu hiệu theo châm ngôn của Pháp: Liberté Égalité Fraternité (tự do, bình đẳng, bác ái huynh đệ). Nhưng cái bình đẳng ấy thì như tôi và ông Trump, ông Bill Gates đều bình đẳng. Bình đẳng chính trị ấy chẳng có gì bình đẳng. Và ngay trong câu mở đầu nêu trên đã không có sự bình đẳng. Khetif quá nhiều hormone nam tính.
Đẳng bình chữ tôi nghĩ ra hay đã đưa vào tiềm thức chữ kẻ khác đã dùng để thay thế équité / equity trong nghĩa bình đẳng thật sự cao hơn pháp lý, gần đến đạo lý xã hội.


Bức hình minh họa ba người đứng xem đá banh cho thấy sự khác biệt giữa đẳng bình và bình đẳng. Cũng như hý họa tuyển chọn vào sở làm qua kết quả leo nhanh nhất giữa voi, khỉ, chim, cá. Cũng như khi Saigon bắt đầu TV mười gia đình chưa có một nhà có máy thu, trẻ con đánh đu cửa số nhà khác xem ké, có đề thi vào đệ thất toàn quốc: em hãy tả cảnh cả nhà ngồi xem truyền hình.

Tôi nghĩ đến một chuyện trong kinh Phật. Vua A Xà Thế bi bệnh tâm thần rất nặng. Phật biết và nhắn rằng nếu ông đến đạo tràng, Ngài sẽ chỉ con đường viễn ly điên đảo, thân tâm an lạc. Ông không tin vì Phật từ bi với mọi người sao lại lo cho một mình ông. Ngài đáp: cha mẹ thương yêu mọi đứa con như nhau nhưng đứa nào yếu kém một điểm gì thì cha mẹ chú ý cho đứa đó nhiều hơn.
Ấn dụ nầy đã bao gồm hai ý niệm bình đẳng và đẳng bình.

Đẳng bình là một vấn đề rất lớn, chi phối hầu hết các sinh hoạt chính trị, văn hóa, kinh tế của các nước dân chủ, chậm nhất là giữa thế kỷ 20.
Có nước rùm ben la lối, lý thuyết, thực hành, gây chia rẻ màu da, địa phương, chủng tộc bên cạnh những giải pháp tích cực dùng đẳng bình để bù đắp những bất bình đẳng dưới chiếc áo bình đẳng.
Có nước âm thầm làm những việc trong tinh thần đẳng bình. Ví dụ miền Nam VN từ 1954 đã hạ thấp số điểm cần thiết trong kỳ thi tú tài cho các thí sinh miền Thượng, cho họ ưu tiên vô học các trường cao đẳng chuyên nghiệp. Lý do trong quá khứ, các sắc dân thiểu số không được hưởng những phúc lợi như người kinh về giáo dục, kinh tế v.v...
Việc làm giới hạn nầy đã đi trước HK. Đến 1961, TT Kennedy mới đặt nền móng cho đẳng binh, phát họa cac điều ông gọi là affirmative actions (hành động xác quyết tích cực), mãi đến sau khi ông chết mới bắt đầu thực hiện bởi TT Johnson năm 1965. Dĩ nhiên affirmative actions rộng lớn, bao quát hơn việc giúp người Thượng ưu tiên nhập học.
Nói cho dễ hiểu và thực tế, affirmation actions giúp cho người da đen ưu tiên vô đại học; hai sinh viên bằng điểm thì người da đen được chọn. Điều nầy bắt buộc với các trường nhận tài trợ của chính phủ. Để chính sách nầy có thành quả, chính quyền trung ương trợ giúp các tiểu bang thành lập nhiều state university và community college (cao đảng công đồng) và nhiều học bỗng, giúp người da màu có bằng cấp đại học, không phải trả học phí cắt cổ như Harvard...
Có lẽ affirmative actions đã làm được việc trong giáo dục, đã đủ, cho nên tối cao pháp viện đã đình chỉ thi hành trong một phán quyết tháng 6 năm 2023.
Đẳng bình vẫn còn được nghiên cứu và thi hành trong nhiều lãnh vực. Giáo dục chú ý khả năng nhận thức của từng học sinh, để ý hoàn cảnh sinh sống của các em trong gia đình, trong khu vực trú ngụ ...

Những dòng nầy vô cùng sơ lược chi để gợi một vấn đề thuộc hàng nằm, không sôi động nhưng cấp thiết, vì tính cách nhân sinh, luân lý và công bằng. Xin lỗi tôi vẫn bị ảnh hưởng bởi PG, nên ghi lại một đoán của Pháp Hoa: nếu có chúng sinh nào đến chỗ Như Lai ở, ta sẽ dùng Phật nhãn xem đức tính căn cơ theo đó mà cứu độ, mỗi nơi ta thuyết giảng những danh hiệu khác nhau.

Để giúp vui và chấm dứt, xin nêu ẩn dụ bánh pizza của nhà giáo DebHillCA
Gia đình sáu người ngồi quanh một cái bàn và một ổ bánh pizza to nhiều xúc xích và phó mát. Món ăn Ý nầy sẽ chia ra sao?
Nếu theo nguyên tắc bình đẳng (égalité /equality), mỗi người sẽ đưọc 1/6 chia đều, lớn nhỏ như nhau.
Nhưng theo tinh thần đẳng bình équité / equity, ổ bánh sẽ chia theo nhu cầu cá nhân vì phúc lợi chung của gia đình. Cô bé đôi tám vegetarian sẽ ăn rau cải. Chú em đang độ lớn cần ăn nhiều theo đòi hỏi của cơ thế sẽ được một miếng bự lớn hơn 1/6. Bà ngoại vì bao tử không chịu các thứ làm từ sữa không dám đụng tới phó mát, bà lớn tuổi chỉ ăn chút xíu vành bột, còn để phần cho cho các cháu ăn thêm. Sư khác biệt về nhu cầu không làm cho ai tốt hơn giỏi hơn hay tệ hơn xấu hơn, đơn giản cho thấy mỗi cá nhân có những nhu cầu riêng thỏa mãn bởi những phương cách phù hợp riêng. 1/6 cái bánh quá nhiều quá thừa với bà ngoại nhưng chưa đủ với bé trai lên 10 đang lớn nhanh.

==========================================

vợ lính ngây thơ, hiền hậu

===================================




người Dao và người Việt xưa trong sử Tàu

người Dao ở Hòa Bình cúng tổ Bàn Hồ
 
NGƯỜI DAO và NGƯỜI VIỆT

The Yao and the Việt 

Lê Minh Khai, ttt dịch

Người Dao là sắc tộc sống trong vùng núi từ Hồ Nam đến biên giới Bắc Việt. Họ viết tiền sử của chính mình dựa theo các tài liệu của Trung Hoa. Những sáng tác nầy được kết tập thành cuốn 評皇券牒 Bình Hoàng Khoán Điệp (văn thư tổng gộp về vua Bình) còn gọi 過山榜 Quá San Bảng (thẻ thông hành vượt núi).

Theo những tài liệu nầy, người Dao là hậu duệ của một vị tổ nửa người nửa chó tên là 槃瓠 Bàn Hồ. Truyện gốc không do người Dao sáng tạo mà là sáng kiến của văn gia Trung Hoa. Thật vậy, chúng ta có thể tìm thấy truyện nầy trong  後漢書 Hậu Hán Thư của Phạm Diệp hay Úy Tông. Sau đó, Phạm Diệp nói rộng rằng mọi sắc tộc 南蠻 Man Nam (gồm cả Bách Việt) đều là con cháu của Bàn Hồ.
Bàn Hồ, một con chó, đã giúp Bình Hoàng Đế giết kẻ địch Cao Vương muốn xâm chiếm đất nước. Vì công trạng nầy Bình Đế gả con gái cho Bàn Hồ, phong Bàn Hồ là Bàn Vương; nhà vua thấy tiếc nên đã đuổi theo bắt con gái lại nhưng trời đất bỗng nhiên sấm sét mưa bão nên đành thôi.

12 người con của Bàn Hồ

Công chúa ăn ở với Bàn Hồ sinh ra sáu trai sáu gái. Chúng lấy nhau, sinh đàn sinh đống ở khắp vùng núi. Người Dao xem Bàn Vương là ông cố tổ cao cao ... tằng, là thủy tổ. Hậu Hán Thư nói thêm xã hội người Dao chia thành nhiều tập thể cộng đồng đứng đầu bởi các tướng quân; họ nhận ấn tín của triều đình, đội mão bằng da con ráy cá. Dân chúng gọi các ông lớn nầy là 精夫 tinh phu, gọi nhau là 姎徒 ương đồ.

Truyện nầy Phạm Diệp Úy Tông viết vào thế kỷ thứ 5 trong chương Nam Man nhưng 1,000 năm sau, người Dao dùng để tỏ bày nguồn gốc và căn cước của họ.
Nếu đã đọc Lĩnh Nam Chích Quái, bạn thấy ngay có sự giống nhau. Truyện người Dao, hoàng đế gả con gái cho một người-chó đã gợi qua Hồng Bàng Thị Truyện với vợ vua bị Long Vương bắt cóc. Cả hai truyện, hai vị vua đã bị các trở lực siêu phàm thần bí không thể chạy theo giật lại hai phụ nữ. Hai nường sinh con, sinh cháu hàng hàng lớp lớp, phải chia ra từng nhóm.
Tóm lược, Bình Hoàng Khoán Điệp hay Lĩnh Nam Chích Quái đều viết theo sách Tàu, đặc biệt là Hậu Hán Thư của Phạm Diệp.

Ghi chú của người dịch
Mặc dầu Hậu Hán Thư nói Bàn Hồ là thủy tổ của mọi dân Nam Man, Lĩnh Nam Chích Quái không ghi rằng giống Bách Việt là con cháu của người-chó nầy. Dịch từ tiếng Anh, a dog, không trang trọng như trong sách là long khuyển, từ trên trời giáng xuống cung triều của Bình Đế như một thần hộ mệnh. Hình ảnh người chó sẽ không làm người Ấn Độ dị ứng vì đã quen vị thần số một là Ganesha mặt voi.

đám rước Ganesha

Tác giả đề cập người Dao từ Hồ Nam đến biên giới Bắc Việt. Nhưng người Dao đã đến gần biên giới Việt Lào ở tỉnh Hòa Bình cạnh Thanh Hóa, tụ tập trong vùng Mai Châu. Trang quảng cáo du lịch của Mai Châu Resort cho biết người Dao thờ Bàn Vương và công nhận nguồn gốc như Lê Minh Khai trình bày. trích:  Vợ chồng Bàn Vương sinh được 12 người con (6 trai, 6 gái). Vua Bình Vương ban sắc phong cho họ thành 12 dòng họ của người Dao, gồm: Bàn, Phàn, Mãn, Uyển, Đặng, Trần, Lương, Tống, Phượng, Đối, Lưu, Triệu. Con cháu Bàn Vương được cấp "Quá sơn bảng văn" (Giấy thông hành qua núi) để phân tán đi sinh sống ở các nơi. Sau khi Bình Vương qua đời, Bàn Vương lên làm vua nhưng vẫn giữ nếp sống giản dị, dạy dân cách trồng lúa, dệt vải, săn bắn. Khi Bàn Vương qua đời, người Dao thờ cúng ông như một vị thần linh thiêng.--

=========================================




Sunday, October 26, 2025

Nam Trung, một làng gốc Nam Kỳ ở Huế






Cầu Phú Thứ cách Nam Trung 1 km

NAM TRUNG làng Nam Kỳ ở Huế
Đinh Khắc Thiện
Vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 xứ Thuận Hóa là nơi đã xảy ra nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử đất nước.
Năm 1786 Nguyễn Huệ đem đại quân Tây Sơn từ phía Nam ra hạ thành Phú Xuân từ tay quân Trịnh, chấm dứt thời kỳ thành Phú xuân bị quân Trịnh chiếm đóng.
Năm 1802, Vua Gia Long sau khi đánh bại nhà Tây Sơn thống nhất đất nước lập ra triều Nguyễn, đã đóng đô tại thành Phú Xuân.
Đồng thời với các sự kiện trọng đại này của đất nước, người dân Phú Xuân đã chứng kiến một trào lưu di cư từ các tỉnh phía Nam ra lại Thuận Hóa. Hay còn gọi là hiện tượng nhập cư ngược từ phía Nam ra Phú Xuân, Huế.
Họ là những người theo các đoàn quân của Nguyễn Huệ và Nguyễn Phúc Ánh vào chiếm hay khôi phục Phú Xuân. Họ là những tướng lĩnh, những quân lính, những quan chức dưới trướng của hai vị vua nói trên, sau khi đến kinh đô Phú Xuân làm nhiệm vụ đã đem theo gia đình đến định cư hẳn ở đây, lập nên những dòng họ mới, thậm chí là những ngôi làng mới.

Thời Tây Sơn, đa số các dòng họ này đều xuất phát từ Quảng Nam đến Bình Định, như họ Lê Nhữ làng Mỹ Á (xã Vinh Giang, Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế), họ Phan làng Mỹ Lợi (xã Vinh Mỹ, Phú Lộc, tỉnh Thừa thiên – Huế), một số dòng họ ở làng An Bằng (xã Vinh An, Phú Vang)….

Nhưng đặc biệt là khi Vua Gia Long khôi phục Phú Xuân, ngoài một số người gốc Thuận Hóa là trọng thần của triều đình cùng vua trở về, còn có rất nhiều người gốc Nam bộ đi theo làm nhiệm vụ rồi định cư luôn. Đã tạo nên một lượng cư dân Nam kỳ khá lớn tại Phú Xuân. Họ nhập cư Thuận Hóa theo 3 đợt chính :
- Đợt “Trung tiến” đầu tiên là những công thần theo giúp chúa Nguyễn Phúc Ánh, trong thời kháng chiến (khởi binh từ Long Xuyên, năm 1778), người nổi tiếng nhất trong đợt này là Phạm Đăng Hưng (1765-1825).
- Đợt thứ hai kế tiếp trong khoảng thời gian từ 1802-1862; nổi bật nhất là Phan Thanh Giản (1798-1867) ông quê quán ở trấn Vĩnh Thanh (Kiến Hòa sau này); Phan Thanh Giản là người Nam đầu tiên thi đỗ tiến sĩ (khoa Bính Tuất – 1826).
- Đợt “Trung tiến” thứ ba diễn ra vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, một lượng lớn người Nam giỏi tiếng Pháp ra Huế giúp việc, đã khiến cho lượng người Nam tại Huế khá đông đúc.
Đây là lý do tại sao hiện nay ở Huế có một số dòng họ gốc Nam Kỳ khá nổi tiếng, như họ Phạm Đăng (ở phường Kim Long, thành phố Huế), họ Đoàn cũng ở Kim Long.
Trong các dòng họ này, có một nhân vật của đợt “ Trung tiến” đầu tiên rất nổi tiếng đó là Phạm Đăng Hưng – nguyên là Thượng thư Bộ Lễ triều Minh Mạng ông là người thành lập “Nam châu hội quán” (hay Nam châu tương tế) làm nơi sinh hoạt, gặp gỡ của những người gốc Nam Kỳ ra lập nghiệp ở Thừa Thiên. Trụ sở của “Hội Nam châu Tương tế” là một ngôi nhà khá lớn trên sở đất rộng 2 mẫu 3 sào là quà tặng của Hoàng Thái Hậu Từ Dũ (là con gái của cụ Phạm Đăng Hưng, vợ vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức), ngay sau Phủ Đức Quốc Công từ (nơi thờ cụ Phạm Đăng Hưng) ngay đầu cầu phía Tây của cầu Bạch Hổ. Đây là nơi sinh hoạt và tổ chức các kỳ đại hội lễ tết của dân cư gốc Nam Kỳ sinh sống tại Huế .

Nhưng theo thời gian hội quán của “Hội Nam châu Tương tế” trở nên quá nhỏ so với lượng người Nam Bộ định cư tại Kinh Đô. Và để giúp cho bộ phận cư dân gồm toàn là những người có công với triều đình này có một không gian lớn hơn để làm nơi cúng tế, gặp gỡ vào các ngày lễ tết, năm 1904 Vua Thành Thái đã cấp đất để thành lập thôn Nam Trung (người miền Trung, gốc miền Nam), thuộc làng Phú Đa, tổng Sư Lỗ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên để làm nơi thờ cúng, tế tự cho các dòng họ gốc Nam Kỳ. Làng Nam Trung ra đời từ đó.

Trước năm 1975 làng vẫn mang tên là thôn Nam Trung, thuộc xã Phú Đa, quận Phú Thứ, tỉnh Thừa Thiên; nhưng sau năm 1975 làng lấy lại tên ban đầu là thôn Nam Châu (nay thuộc thị trấn Phú Đa, huyện Phú Vang). Đây là ngôi làng Nam Kỳ duy nhất tại tỉnh Thừa Thiên – Huế hiện nay.
Người có công khai phá hoàn chỉnh làng Nam Trung đầu tiên là cụ Phạm Năng Tuấn (1857-1932) tước vị Hàn Lâm Viện Thị Độc Phụng Thành Đại Phu. Công dân đầu tiên nhập tịch sổ bộ của làng sau ngày thành lập (1904) chính là Phủ Doãn Thừa Thiên cụ Trần Trạm (1857-1938).
Đây là ngôi làng có các cư dân vốn là các trọng thần của triều đình gốc Nam Kỳ, các nhân vật khoa bảng và nhiều nhân vật nổi tiếng của xứ Huế xuất thân hoặc là công dân danh dự của làng, đặc biệt về văn học nghệ thuật.
Cho nên cư dân quanh vùng đã truyền tụng một giai thoại có thật về ngôi làng này, đó là ngôi làng có “quan nhiều hơn dân”, vì thực tế như nói trên đây - “dân làng” đều là quan lại khá giả sinh sống ở Kinh thành, số cư dân ở lại làng rất ít, họ chỉ trở về làng đông đủ khi có việc làng, việc họ.
Do đặc điểm của làng là “quan nhiều hơn dân”, khi có việc làng, việc họ hay chạp giỗ cúng kỵ đều phải thuê mướn dân các làng chung quanh đến làm các công việc nặng nhọc như mổ heo, hạ bò, mang vác cờ lọng nghi vệ cúng tế hay chạp mộ .

Ngôi làng có đầy đủ các tiêu chuẩn của một ngôi làng như quy định của luật pháp thời ấy, dân làng được cấp 9 mẫu đất để làm tế điền và 7 sào đất để làm Từ Đường Cửu Tộc (9 họ) tại huyện lỵ Phú Vang. Buổi đầu ngôi làng Nam Trung hội tụ được 9 họ tộc nguyên quán miền Nam, gồm: họ Phạm Hữu, họ Phan, họ Trần, họ Nguyễn Trọng, họ Nguyễn Trung, họ Đoàn, họ Lê, họ Đặng Ngọc, họ Đinh, về sau có thêm họ Hoàng Trọng.

Vì lý do khá đặc biệt trên đây, làng Nam Trung tuy là một ngôi làng ngụ cư đã sản sinh ra nhiều bậc khoa bảng và văn nghệ sĩ nổi tiếng. Ngoài những công dân danh dự nổi tiếng của làng (là người lập làng nhưng không sinh ra tại làng) như : Phạm Đăng Hưng, Phan Thanh Giản, Trần Đạo Tế, Trần Trạm (Phủ doãn), Đặng Ngọc Oánh (Tuần vũ), Phạm Hữu Văn (Tiến sĩ năm 1913), Nguyễn Trọng Tịnh (Phó Bảng năm 1916)…

Lớp hậu duệ của các cụ cũng khá nổi tiếng, đặc biệt về văn học nghệ thuật, họ Phạm Đăng có họa sĩ Phạm Đăng Trí – là họa sĩ nổi tiếng nhất của xứ Huế, họ Phan Thanh có nhà thơ Phan Thanh Phước, nhà giáo Phan Thanh Hy. Họ Đoàn có Đoàn Nẫm, Đoàn Nông là những nhà nghiên cứu tuồng; họ Trần như Trần diệu Tâm (An Hiên – Paris). Họ Đặng Ngọc có chủ rạp hát bội Ba Tuần ở Huế - Đặng Ngọc Oánh, nhân vật khai sinh ra ngành kịch nói – cậu Năm Hùng, chính là ông Đặng Ngọc Hùng con ông Oánh. Họ Đinh có chủ nhà in ở Gia hội ông Đinh Văn Sum, có họa sĩ Đinh Cường nổi tiếng về tranh trừu tượng…cũng chính là một người dân của làng Nam Châu.

Ngoài ra cũng có khá nhiều công dân danh dự của làng (không nhập tịch) khá nổi tiếng, như: Trương Vĩnh Ký, luật sư Diệp văn Kỳ (1895-1945), cụ Hồ Phú Viên hàm Hiệp Tá (Tuần Phủ),

Đặc biệt một người dân của làng đã được lưu danh tại văn bia tiến sĩ ở Văn Thánh Huế là ông Phạm Hữu Văn (1882-1946) bút hiệu Mai Nam, tiến sĩ khoa Quý Sửu (1913) ; vị tiến sĩ này có ảnh hưởng khá sâu đậm trong lòng người dân làng Nam Trung.

Ở đây có một chi tộc họ Đinh gốc Nam Kỳ.   22.07.2013

====================================




cục xôi chẩn tế


GIÀNH NHAU CỤC XÔI ĐỒNG TIỀN
Tôn Thất Tuệ


Nói về thời kỳ chừng cuối thập niên 1940 theo trí nhớ. Lúc ấy thường có các cuộc chẩn tế tại các chùa hay các nơi cúng cô hồn dựng tạm đâu đó. Chẩn tế thường tổ chức tháng 7 âm lịch, là một nghi lễ Phật Giáo. Tôi đã chứng kiến năm bảy lần chẩn tế quanh vùng Nam Giao, Bảo Quốc, Từ Đàm và Thiên Minh. Có lạ lúc nào cũng thấy thầy Châu Lâm chủ trì mà không phải các sư trụ trị tại chỗ. Trong chùa Thiên Minh ai cũng nói thầy Châu Lâm mới trị được cô hồn, mấy thầy không cao tay ấn bị ma vật lại, quỷ phá nhà chay.
Chủ tế đội mũ Địa Tạng gần như Đường Tam Tạng trong phim Tàu, ngồi trên một ghế bành, phía trước có án thư khá nhỏ; tất cả trên một cái bệ cao ngang lưng người lớn.Thầy được phụ tế bởi sáu vị sư trẻ, ngồi trên hai ghế dài của bộ trường kỷ, trên bệ bệ thấp hơn. Mỗi bên ba vị nhìn nhau, không cùng hướng mắt của chủ lễ. (có nơi thay bộ ghế bằng bộ ngựa, có cái hập tộ dài và sáu thầy ngồi xếp bằng). Lục vị thiếu tăng nầy lo chuông mõ tán tụng theo sự điều hướng của chủ tế.
• Quan trọng nhất và uy nghiêm nhất là lúc thầy một mình đọc chú, đọc kinh. Thầy cầm một pháp cụ chỉ là một thanh gỗ nhỏ khối lập phương bốn dài hai ngắn, dứt chú, thầy đập mạnh xuống bàn, đồng thời phán một chữ "án"; tiếng của thầy và tiếng pháp cụ trên bàn chung như một. Tất cả đều lặng thinh.
Phía trước là chỗ bổn đạo, dân chúng tập trung như đứng xem hát bội ở đình. Mọi người như bất động một phần vì ảnh hưởng của "án" và tiếng gỗ nêu trên, một phần chờ hành động tiếp của vị chủ tế. Thầy sẽ ném ra sân một hay vài cục xôi.
Cục xôi tròn dẹp không lớn lắm, há miệng rộng có thể lũm một lần, trên mặt cục xôi có một đồng tiền xưa bằng đồng, một cây nhang cắm vào cục xôi qua lỗ tiền. Thầy ném ra cho cô hồn sống a thần phù giành nhau. Quý là đồng tiền con nít đeo vào cổ sẽ sức khỏe, không bệnh tật. Ai còn nhớ thấy hay chính mình đeo đồng tiền thì biết đồng tiên do chẩn tế mà ra. Không phải chỉ một lần mà nhiều lần thầy "chẩn" cho chúng sinh. Số lần "chẩn" theo đúng bài bản, không thêm không bớt. Thầy nhìn dĩa xôi, tính rợ bao nhiêu oản ném một lần. Hết xôi rồi việc.
Các buổi chẩn tế nầy đều có cảnh xả dàn, a thần phù cô hồn sống chụp giật thức ăn.


• Chúng tôi không biết chữ Hán nhưng lò dò thì thấy chữ chẩn và chữ tế đều có nghĩa trợ giúp. 賑濟 chẩn tế mang ý nghĩa cho không như trong Tam Quốc Chí có lần mở kho phân phát thực phẩm cho dân. Chẩn tế của thầy Châu Lâm nhằm cho cô hồn ăn miễn phí; ngoài cái ăn thường tình còn hưởng "pháp thực", nghe những lời kinh ngọt ngào, bước lên xe vào pháp giới mới cao hơn, được thầy chú nguyện cùng nhau ra khỏi tâm cảnh súc sanh, địa ngục, a tu la, bước vào "thiên" mà đi lên.
• Án 唵 mường tượng như một khẩu lệnh. Nghe chữ "án", các pháp giới ngưng tai lắng nghe lời thiêng của vũ trụ. Có lẽ vì vậy án thường gặp trong các câu chú như chú Đại Bi, và rõ nhất là lục tự chân ngôn: án ma ni bát di hồng. ''Án'' đâu đó gần với chữ "om" chữ "nam'' (nam mô).
• Quỷ phá nhà chay. Các chùa đều có chỗ thờ các ngài hộ pháp; có nơi thờ ở cổng, châm ma quỷ không cho vô. Tuy nhiên ngành Pháp Hoa Nhật chú trọng đến tam chướng tứ ma (shanshosima) là những trở lực tác hai việc trì hành. Ba và bốn là những gì không nhớ. Nhưng tam chướng thuộc nội tâm như kiêu ngạo đã giác ngộ, nổi lửa đốt chùa giết Phật đi. Vì sân si đã hiểu câu phùng Phật giết Phật theo ý riêng trần tục. Tứ ma là ngoại cảnh, ví như sắp tụng kinh thì TV có phim hay xem cái đã rồi đi ngủ, "rồi cứ thế nhiều lần ta trốn học".
Cục xôi không hay bằng xú chen, xin xem thêm:

Saturday, October 25, 2025

Camus tha thiết với quê nhà (2014)


Camus tại phế tích Tipasa

tha thiết với quê nhà

Camus & Algeria: The Moral Question

Claire Messud, ttt dch
“Giữa bầu trời và các khuôn mặt hướng về bầu trời, không có chỗ nào để treo móc thần thoại, văn chương, luân thường hay tôn giáo; mà chỉ có sỏi đá, da thịt, tinh tú và những chân lý tay người có thể sờ mó được”. Albert Camus

Vào một mùa Giáng Sinh trong thời gian tôi mới vào tuổi đôi mươi, mẹ tôi, chị tôi và tôi đi lễ giữa khuya về thì thấy cha tôi, một người rất riêng rẻ và xưa nay cương quyết không hành đạo, đang xem trên truyền hình Đức Thánh Cha John Paul II làm lễ tại (thánh đường) St Peter, nước mắt rưng rưng. Ai cũng ngạc nhiên và khó chịu khi thấy cảnh nầy cho nên tôi hỏi tại sao ông khóc. Cha tôi nói: “Mới rồi bố nghe thánh lễ bằng tiếng La Tinh, bố nghĩ rằng bố có một tôn giáo và một quê nhà”.
Cha tôi, giống như Albert Camus, là một “pied noir”, người Algérie gốc Pháp. Trẻ hơn nhà văn tương lai nầy 18 tuổi, ông sinh trưởng ở Bab el-Oued, một khu thợ thuyền không như Belcourt của Camus. Ở đây ít ai có tiền bạc nhưng ông tôi là một sĩ quan hải quân. Cha của Camus tử thương trong những ngày đầu của Thế Chiến I khi đứa con trai mới lên một. Camus và người anh được nuôi dưỡng bởi bà mẹ không biết chữ gần như điếc, bởi bà ngoại rất cứng cỏi và bởi người cậu chuyên nghề làm thùng và hầu như câm.
Giống như Camus, cha tôi học trung học Bugeaud, ngồi chung lớp với (triết gia) Jacques Derrida và tiếp đó là trường luật. Năm 1952, cha tôi qua Mỹ theo chương trình học bỗng Fulbright, danh sách học viên Pháp cho thấy ông là người duy nhất ở Algérie. Rồi từ đó sống đời xa xứ, ở Pháp, Úc và Bắc Mỹ. Nhưng chắc chắn lúc ông ra đi, không biết rằng trở về là điều không thể thực hiện.
Ông tôi, chỉ lớn hơn Camus tám tuổi, xuất thân từ một nơi nghèo hơn, Bida, khu tây nam Algérie. Bà cố, một giáo viên tiểu học và con của một bồi bàn không biết chữ, một mình nuôi nấng bốn đứa con. Đứa nhỏ nhất, ông tôi, giống như Camus, thừa hưởng hệ thống giáo dục của Pháp dựa vào sức học, tìm đường ra khỏi cái nghèo khó tăm tối, bước vào trường danh tiếng Polytechnique ở Paris, và sau đó gia nhập Hải Quân, làm sĩ quan nhà nghề. Là một con chiên ngoan đạo và là một người yêu nước Pháp nồng nhiệt, ông cũng ngưỡng mộ sinh quán Algérie. Thư từ giữa hai ông bà đầy thiết tha với quê cảnh, nồng nàn như tình cảm dành cho nhau.
Không ai trong gia đình mở miệng nói một lời về Cuộc Chiến Algérie; mọi người đều kể những chuyện trong hai thập niên 1930 và 40 vào thời cha tôi và cô bác còn nhỏ; những gì xẩy ra về sau đều được giữ nguyên trong im lặng. 1955, ông tôi được bổ nhiệm qua Rabat, Maroc; hai ông bà không còn sống ở Algérie nữa. Những năm cuối thập niên 1950, cha tôi làm luận án tiến sĩ về Thổ Nhĩ Kỳ, tại trường Cận Đông Học, Harvard. Sau khi ông qua đời, trong khối giấy tờ, luận văn, sách báo, tôi tìm thấy rất nhiều tài liệu về các sôi động, xáo trộn ở Thổ và các nước chung quanh như Ai Cập, Liban, Syrie, Pakistan, Ấn, Libie, nhưng không một chữ về quê nhà của ông. Theo như tôi hiểu, những giọt nước mắt cô độc 25 năm trước là cách diễn đạt duy nhất những xúc động dành cho thế sự quanh mình.

Ngày 5-7-2012, Algérie tổ chức mừng 50 năm độc lập khỏi nước Pháp. Cho đến khi chết vì tai nạn xe cộ ở Sens tháng giêng 1960, ở tuổi 46, hai năm rưởi trước hiệp ước đình chiến Evian, Camus luôn là một khuôn mặt cho hai phía tả khuynh và hữu khuynh xỉ vả mắng chửi; họ xem ông đồng thời vừa ngây ngô vừa cứng nhắc trong hy vọng ráo riết có một giải pháp Algérie ôn hòa. Cuối 1958, Camus viết rằng mục tiêu của ông là: “thực hiện cái tương lai duy nhất có thể chấp nhận: thứ tương lai trong đó nước Pháp – luôn nhiệt tình ôm ấp truyền thống tự do – xử sự công bằng đối với mọi cộng đồng ở Algérie, không bênh ai, không bỏ ai”.
Ngày 7-11-2013 đánh dấu Camus 100 tuổi. Nghệ sĩ kiêm luận sĩ của chúng ta – tác giả L’Etranger, 1942, L’Homme Revolté, 1951 – còn nguyên trong sự ái mộ của độc giả. Nhưng lập trường của ông về vấn đề Algérie gây nhiều tranh luận, trước và sau khi ông chết.
Cuốn sách Algerian Chronicles mới xuất bản cho Camus một cơ hội trễ muộn để tự biện minh trước công chúng nói tiếng Anh. Cuốn sách nầy nói lại tiếng nói công khai sau cùng của ông về vấn đề nầy như nó được ghi trong ấn bản đầu tiên tháng 6-1958. Việc phát hành nầy đánh dấu hai năm rưỡi im lặng của mọi người, cái im lặng mà Kaplan (bĩnh bút ấn bản tiếng Anh) cho là đồng lõa với ươn hèn, mà gia đình tôi thì gọi là hấp hối. Im lặng ấy vẫn còn tiếp tục ngự trị.
Cuốn sách không được chào đón nồng hậu vì nó ra đời theo sát chân tác phẩm của Henry Alley: La Question mô tả linh động việc tác giả bị tra tấn trong nhà tù Barberousse ở thủ đô, nhanh chóng thành best seller và bị chính quyền Pháp tịch thu. Cuốn sách nầy, và các cuộc tranh luận do nó gây ra, đã ảnh hưởng mạnh mẽ trên dư luận Pháp; do đó không thể bỏ qua, hay không ngó ngàng đến các sự kiện liên quan đến tra tấn bởi quân lính Pháp.
Một năm sau La Question, cuốn La Gangrene đăng tải bảy tập tường trình của bảy nhà trí thức và sinh viên trẻ Algérie bị tra tấn bởi chính quyền Pháp tại Paris. Cuốn nầy cũng như cuốn của Alley nhanh chóng bị trừ khử ở Pháp. Nó được dịch qua tiếng Anh bởi Robert Silvers, bĩnh bút tờ The New York Review of Books. Nhà xuất bản Lyle Stuart đã giới thiệu trên bìa sách như sau: Những cuộc tra tấn nầy không xẩy ra trên con đường hẻo lánh của một ngôi làng quê góc núi. Chúng xẩy ra ngay trong trung tâm của Paris, xẩy ra tám tháng sau khi de Gaulle cầm quyền, và xẩy ra trên dưới 100 mét cách Điện Elysée”.
Camus không còn là phát ngôn viên cho đề mục nầy: lúc trẻ, Camus đã tiên phong làm cho quần chúng chú ý đến các khổ đau của người Algérie địa phương. Nhưng trong thập niên 1950 người ta tin rằng ông đã xa lìa, không nắm vững các thực tại của quê nhà. Chẳng phải vì không còn chú ý hay không còn dấn thân mà vì quan niệm tổng quát cho rằng Algérie không thể là Algérie tách ngoài nước Pháp về mọi mặt. Trong thời gian xẩy ra các sự tàn ác của hai phe, nhiều người quanh Camus ghi nhận sự tất yếu một nước Algérie độc lập. Khi ông giáo thương yêu nhất và là người đỡ đầu của Camus, Jean Grenier, nói rằng Pháp phải bỏ thuộc địa nầy, tác giả cương quyết phát biểu: “Không thể được, nước Pháp không bao giờ có thể quẳng ra biển một triệu hai trăm ngàn người Pháp”.

Algerian Chronicles qui tập các bài viết về Algérie của Camus trong 20 năm qua; từ khi khởi sự tường trình sự nghèo khổ ở vùng Kabylia cho tờ báo Alger Républicain tháng 6 năm 1939 cho đến lời kêu gọi năm 1956 một cuộc ngưng chiến dân sự mà ông đã nêu lên lần đầu trong một cột báo của L’Express và sau đó trình bày với công chúng Algiers trong những cuộc nhóm họp hổn loạn và tai hại trong ngày 22 tháng Giêng cùng năm. Tuyển tập nầy được hoàn tất với lời tựa của chính tác giả năm 1958 cùng các phụ bản làm sáng tỏ các vấn đề liên quan.
Độc giả, sau khi duyệt xem tuần tự các nhận định, những lập luận, sẽ thấy nơi Camus một sự tin tưởng luân lý không thay đổi, một cái nhìn lạc quan, một biệt tài theo sát các nguyên tắc công lý của chính ông, ngay cả trong những lúc mọi người nhảy vào cuộc tranh luận với nhiều cảm tính gây hổn loạn. Lập trường của ông về Algérie trong thập niên 1950 không những chỉ nẩy mầm từ các bài tường thuật ở Kabylia mà còn từ những bài viết năm 1939 cho tờ Alger Républicain trình bày các lập trường triết lý và khuynh hướng hòa bình. Trong bức thư không niêm 1948 gởi Emmanuel d’Astier (ký giả, chính khách), ông viết: “Tôi chỉ nói ngắn gọn chúng ta phải từ bỏ việc cho bạo động tính chất chính đáng, dù vì lý do tồn vong chính trị, hay vì triết lý độc tài. Bạo động không thể biện minh”.
Những lời trên không xa khác với lời tựa 1958, trong đó ông lưu ý người Pháp “chúng ta phải từ chối biện minh cho những phương pháp ấy (tra tấn và đàn áp) với bất cứ lý do gì, cho dù nhân danh sự cần thiết, sự hữu hiệu. Một khi có người biện minh dù gián tiếp thì mọi lề lối và giá trị đều bị đánh đổ. Ông cũng nói với Mặt Trận FLN (MT) rằng dù bảo vệ bất cứ thứ chính nghĩa nào mà tấn công bừa bãi các đám người vô tội, thì cả hai phe đều sẽ bị kết án.
Đồng thời ông cũng mắng mỏ những nhà trí thức xa lông (ngầm hiểu Jean Paul Sartre) đứng ngoài xa ủng hộ bạo động khủng bố: Mỗi bên đều biện minh hành động của mình bằng cách nêu tội ác của bên kia. Đây là ngụy biện tồi tệ bằng máu mà theo tôi các nhà trí thức không được dùng tới”.
Chính sự trong sáng luân lý nầy đã làm Camus vỡ mộng đối với Cọng Sản và đẩy mạnh ông trong việc chống đối án tử hình. Nhiều lần Camus đã lên tiếng bảo vệ mạng sống của những người hợp tác với Nazis và các người khủng bố của MT.
Không có gì thay đổi nơi Camus nhưng tình hình Algérie thay đổi. Chuyến đi 1939 viếng thăm Kabylia –vùng phía bắc của dân Berbers – phơi bày cho ông thấy nạn đói kém và sự bại hoại trước đó không ai tưởng tượng ra. Giống Chekhov viếng thăm Shakhalin, ông bị chấn động sâu xa bởi cảnh khổ mà ông chứng kiến. Những bài báo thiết tha của ông đầy những sự kiện: một gia đình tám người cần 120 ký bột mì mỗi tháng nhưng tháng qua họ chỉ kiếm được 10 ký. Ông cũng đưa ra các đề nghị cấp tiến: hủy bỏ rào cản nhân tạo giữa trường Âu Châu và trường địa phương; phải xây thêm nhiều trường nữa.
Đáp lại, chính quyền không thay đổi gì mà còn đóng cửa tờ báo, trục xuất Camus khỏi Algérie để lưu trú ở Paris từ tháng 3 năm 1940.
Camus lại có dịp quay mắt nhà báo về các vấn đề của sinh quán, theo dõi trên tờ Combat (báo Kháng Chiến) cuộc nổi dậy ở Setif ngày 8 thg 5, 1945, đánh dấu mốc đầu tiên Chiến Tranh Algérie (tuy nhiên không có thêm bạo động cho đến 1954). Như Alistair Horne viết trong A Savage War of Peace, trong vòng năm ngày, ở Setif và phụ cận, 103 người Âu châu bị sát hại, 100 người khác bị thương: “nhiều xác chết bị dập nát; đàn bà bị cắt vú, đàn ông bị cắt bộ phận sinh dục nhét vào miệng”.
Nhưng việc trả đủa và đàn áp của quân lính Pháp đã đưa con số nạn nhân từ 1.300 đến 45.000 người. Nhà thơ Kateb Yacine nói ông không bao giờ quên cuộc chém giết dã man hằng ngàn người Muslim; từ lúc ấy 16 tuổi, ông đã ý thức một chủ nghĩa quốc gia hình thành trong đầu óc.
Tại nước Pháp, báo chí không đề cập các chi tiết thuộc các biến động nầy. Nhưng Camus đã để riêng mục Khủng Hoảng Algérie để viết về vùng sôi động nầy. Một lần nữa, ông tả lại cảnh nghèo đói, tình trạng kinh tế suy bại để hậu thuẩn cho việc người xứ thuộc địa đòi hỏi tự do; ông nêu rõ rằng nhiều người Algérie đã chiến đấu cho nước Pháp, ông tố giác Pháp không làm gì để thực hiện mục tiêu dài hạn của chính phủ là hội nhập và cấp quyền công dân cho mọi người Arab tại Algérie; phải thay đổi kịp thời trước khi mất thời cơ và không nắm được tình thế.
Camus kết thúc loạt bài bằng cách ủng hộ lãnh tụ ôn hòa Ferhat Abbas và đảng Union Démocratique du Manifeste Algérien chủ xướng hiến pháp và quốc hội; đồng thời Camus nhấn mạnh đến sự cần thiết của công lý, « khắp nơi trên giới, không riêng gì ở Bắc Phi, nếu không có công lý thì không có cái gì mang tĩnh từ ‘francais’»  

Khoảng giữa 1945 -54, dân chúng Arab ngày càng đòi hỏi những điều quá khích, đi theo chiều hướng cách mạng, đòi độc lập. Điều đáng nói, trong khoảng thời gian nầy, Camus – chán ngấy chủ thuyết Staline – viết cuốn L’Homme Revolté. trong đó ông đòi suy xét lại các ý kiến thành khuôn về cách mạng (cả cách mạng Pháp) và ông nhận định rằng các cuộc cách mạng thời nay đều đem lại các chính thể tập quyền độc hại.
Camus nói với một lãnh tụ MT: người ta nói với tôi và anh rằng thời buổi tương nhượng đã qua, bây giờ mục tiêu là phát động chiến tranh để mà thắng; nhưng cả hai bên, không ai là kẻ thắng.
Lúc nầy là đầu năm 1955, cái nhìn màu hồng đẹp tươi và bền bỉ ấy đã đưa Camus đến một ngõ rẻ, xa cách với thực tế. Ông cho là ấu trỉ bất cứ ai tin Pháp sẽ bất thần tiêu ma, ông tiếp tục tin không ai thắng ai bại. Giữa lúc ấy MT quyết định giành độc lập bằng mọi phương tiện cần thiết. Tháng 9-1956 MT bắt đầu đường lối chính thức tấn công thường dân. Bom nổ khắp thị thành.
Trong lúc ấy, người gốc Pháp, pied noir, được phép mang vũ khí, do đó mức độ sợ hãi và bạo động gia tăng. Cuối 1956 khủng bố hữu khuynh khởi động với sự ủng hộ của quân đội và nhóm hành động (nhóm nầy về sau thành lập Tổ Chức Quân Đội Bí Mật). Tháng Giêng 1957, tướng Massu kiểm soát thủ phủ Algiers với thẩm quyền quân sự không giới hạn mới được giao phó. Tra tấn người Algérie và Âu Châu bất đồng chánh kiến xẩy ra liền liền; và bên phía MT cũng tra tấn không kém.
Tình hình Algérie đã thành vô vọng, vào lúc Camus, như một hành động công khai cuối cùng, đưa ra lời kêu gọi đơn giản và tâm huyết, đề nghị một sự hưu chiến dân sự cuối tháng giêng:
Chúng ta muốn gì? Chúng ta muốn phong trào Ả Rập và chính quyền Pháp cùng lúc tuyên bố rằng cho dù các biến động còn tiếp diễn, thường dân lúc nào cũng được tôn trọng và bảo vệ. hai bên không cần phải gặp gỡ nhau hay làm một điều chi khác, chỉ cần nói như vậy và làm theo.
Lời yêu cầu nầy được đón nhận trong sự lãnh đạm của hai bên; tiếp theo sự thất bại nầy, mọi lời tuyên bố công khai đều không được ông ủng hộ. Nhà văn Tunisie gốc Do Thái Albert Memmi viết cuối 1957:
Camus bị ép buộc phải im tiếng, bởi vì mọi điều liên quan đến Bắc Phi đều làm ông tê liệt. nhưng phải hiểu rằng ông ở trong hoàn cảnh khó khăn; cả trên hai phương diện trí thức và tình cảm, dễ gì đưa mọi người trong cùng gia đình đứng về một phía đang bị luân lý kết tội.

Và từ một cái nhìn đương thời, Robert Zatetsky (người viết tiểu sử Camus) đã hùng hồn nhận xét:
Sự im lặng của Camus trước cuộc chiến tàn phá Algérie – sinh quán và nguồn xuất phát hầu hết các hình ảnh địa giới đẹp đẽ nhất của Camus – không phá vỡ những giới hạn và giá trị của luân thường, luân lý. Thật vậy, nó xuất phát từ nhận chân của ông rằng cả hai phía trong cuộc tương tranh nầy đều có người bị ô nhục khốn khổ: đại đa số ngưới pieds noirs và người Ả rập.
Sự chân thành và sự nhất quyết của Camus duy trì sự trong suốt luân lý ít ai có. Ông thấy rằng “thời đại chủ nghĩa thuộc địa đã cáo chung” nhưng ông cảm nhận rằng “vấn đề duy nhất bây giờ là nêu rõ các giải pháp rõ rệt và thích ứng. Trong trường hợp nầy là đường lối ôn hòa: công nhận quyền của mọi thành phần trong xã hội, gồm cộng đồng của riêng ông.
Nhưng nhìn quanh, bạn bè, người quen biết v.v…đều giả dối và mưu toan. Ngồi an toàn yên ổn dưới các mái che của các quán café Paris, Sartre và Simone de Beauvois ca ngợi hoan hô MT như họ đã hoan hô Staline. Raymond Aron thì xét cuộc khủng hoảng bằng bài phân tích kinh tế so sánh mức lợi và chi phí; thuộc địa Algérie không khả dụng về tài chánh cho nên Pháp phải bỏ đi. Chính quyền quân sự và dân sự đã làm thương tổn danh dự của Pháp vì tra tấn và bạo động. Camus đã gặp De Gaulle tháng 3-1958, hai tháng trước khi ông khổng lồ chấp chánh đề nghị cho mọi người Algérie có quyền công dân Pháp, ông tướng mỉa mai: được, chúng ta sẽ có năm mươi thằng mọi trong Hạ Viện”.
Tuy nhiên trong thực tế, lời kêu gọi hưu chiến của Camus không hoàn toàn bị lãng quên. [Nhà văn và nhân chủng học Germaine Trillons, giống như Camus, đã sống trong những năm 1930 với thổ dân trong vùng núi Aures, khi làm luận văn tiến sĩ]. 1954, bộ trưởng nội vụ Francois Mitterand phái bà trở lại Algérie để quan sát tình hình. Bà đã đệ nạp một bản tường trình về các điều kiện sinh sống của người Muslim, trong cùng một viễn quan với Camus. 18 tháng sau lời kêu gọi của Camus, 6-1957, bà Trillons gặp kín thủ lãnh MT Saadi Yacef. Sau bốn giờ thảo luận, bà trở về với sứ mệnh đề nghị chính phủ Pháp chấp thuận một cuộc hưu chiến dân sự song phương.
Để tỏ thiện chí, Yacef đồng ý rằng MT sẽ không tạo ra tử vong, thiệt hại cho thường dân trong một tháng. Trillons hội đàm với De Gaulle và với chính phủ. Tuy kết quả không đi đến đâu, Trillons vẫn cố trở lại gặp Yacef vào tháng tám, để thêm một lần nữa không có gì trong tay, mà còn bị Yacef trách móc: “Tôi không biết chuyện nhà của bà ra sao; nhưng tôi tin lý trí sẽ được đem ra sử dụng, nhưng chúng tôi đã thất vọng”.
Ký giả Jean Daniel, cũng là người Pied Noir, vào cuối thập niên 1950, đã không đồng quan điểm với Camus về số phận của Algérie. Trái với Camus, Daniel chấp nhận thương thuyết với MT và kêu gọi độc lập. Khi nghe Daniel nói độc lập của Algérie là điều không tránh được, Camus đã trả lời:
Đối với một ký giả, kể cả ký giả dấn thân, hay đối với nhà trí thức, điều đó có thể mang ý nghĩa gì? Bạn lấy quyền gì mà định một hướng đi cho lịch sử? Mấy chữ không tránh được chỉ dành cho những kẻ bàn quan tự trốn trong sự bất lực của chính mình, đánh mất sự hình thành những ước vọng.
Daniel giải thích vì sao Camus vẫn khư khư giữ lập trường cố hữu, nó được xây dựng trên hai mấu chốt căn bản: một bên là sự nghèo khổ, bên kia là sự kinh hãi. Việc Camus bài bác bạo động một cách ráo riết có thể tìm thấy dễ dàng trong những điều ông nói và viết về Algérie. Trước sinh viên Algérie du học ở Thụy Điển, ông nói: “Giờ nầy, người ta đặt bom trên tàu điện ở thủ phủ Algiers, rất có thể mẹ tôi là một hành khách trên tàu; nói chi thì nói, tôi không muốn mẹ tôi chết”. Cảm thông sâu sắc sự khổ đau, không nơi nào, không một lúc nào ông chấp nhận bạo động; tháng 11-1945 ông đã viết trong lưu ký: “Tôi sinh ra không phải để làm chính trị, bởi lẽ tôi không đủ khả năng muốn hay chấp nhận cái chết của đối phương”.

Daniel nói thêm một điều khá quan trọng: như bất cứ ai có gốc gác thấp kém về xã hội, Camus không thể tự xem mình là người thừa hưởng lịch sử lâu dài của sự áp bức thực dân; ông bị khinh bạc, bị áp bức, bị khai thác như những những kẻ nghèo hèn khác.
Đây tôi nói thêm rộng ra một chút. Giống như ông nội tôi, Camus, một đứa trẻ mồ côi cha và nghèo khó, được nằm trong sự nâng đỡ của các bậc trưởng thượng, các vị thầy giáo. Trước tiên thầy dạy đệ nhất cấp, Louis Germain (thúc dục bà ngoại của ông cho thằng bé đi học đệ nhị cấp, chứ đừng cho nó đi làm) rồi đến thầy dạy đệ nhị cấp Jean Grenier mà ông mang ơn suốt đời và đã đề tặng cuốn sách đầu tiên L’Envers et l’Endroit và cuốn L’Homme Revolté.
Qua các vị thầy ấy, chính nước Pháp đã đưa những kẻ thấp hèn nhất khỏi sự nghèo khó, và cung cấp cho họ mọi cơ hội tiến thân. Đối với ông tôi, đối nghịch với người phản kháng (l’homme revolté), không có gì thắc mắc, nghi vấn, Cọng Hòa Pháp là một người cha. Gia nhập Hải Quân, ông tôi phục vụ cha một cách trung thành. Nhưng Camus, vì là một đứa con phản kháng, đã trở thành một đứa con nhiều đam mê của nước Pháp. Trong cuốn The Burden of Responsibility, Tony Judt đã mô tả “hơi văn” của Camus một cách đẹp đẽ: Ông đã phối hợp hòa chung cái nhìn truyền thống và lãng mạn về nước Pháp cũng như những khả thể của quốc gia nầy với uy tín trong sạch của chính mình. Việc lý tưởng hóa nước Pháp của Camus có thể có chỗ sai nhưng ý hướng của ông bao giờ cũng cao quý. Daniel lập luận rằng cả hai người Trillons và Camus đều tin chắc bạn không thể gạt bỏ một điều có thể xẩy ra là xóa các tội thuộc địa bằng sự hối lỗi chân thành và bằng sự sửa chữa đầy đủ và rộng lớn.
Daniel dùng thuật ngữ tội và xóa tội cũng đúng đấy chứ. Trong khi ông tôi suốt đời là con chiêu ngoan đạo nhiệt thành thì Camus là một kẻ vô thần thiên chúa. Ông khước từ tôn giáo nhưng ông được hình thành, nuôi dưỡng trong tinh thần của tôn giáo. Luận văn đại học của Camus chuyên nghiên cứu về thánh Augustine và Plotinus. Những sự dấn thân của ông ở bề sâu vẫn mang tính chất thần học. Camus không loại bỏ các giá trị của Thiên Chúa Giáo; bằng chứng, trong cuộc gặp mặt có Koestler, Sartre, Malraux và Manes Sperber, ông đã nói rằng nếu những ai đã theo chủ thuyết của Nietzche, chủ thuyết hư vô, chủ thuyết thực tế lịch sử nay nhận mình sai lạc trước công chúng và xác nhận sự cần thiết của những giá trị luân lý; nếu được như vậy mới có chút hy vọng...
Với Camus, nếu Pháp là cha thì Algérie là mẹ; và đứa con ngưỡng mộ cha mẹ nầy không bao giờ mong muốn song thân ly dị. Trong các luận văn hay tiểu thuyết, ông thường nói lên tính chất song đôi của tinh thần mình. “Địa Trung Hải đã tách riêng hai thế giới trong tôi. Một thế giới lưu giữ mọi ký ức của tôi và một thế giới nơi cát và gió xóa mọi dấu tích của con người. Camus nhận được một trong những tài nguyên trong đời từ thế giới trần tục, không chữ nghĩa, không biên giới (thế giới của người mẹ mù chữ và gần như câm). “Tôi khôn lớn lên với biển; và sự nghèo khó đối với tôi rất quí giá; rồi tôi mất biển và tôi nhận thấy sang trọng là điều chán nản, đồng thời nghèo khó là điều không chịu đựng được”. Trong bài ca ngợi sinh quán Mùa hè ở Algiers, ông viết:
Giữa bầu trời và các khuôn mặt hướng về bầu trời, không có chỗ nào để treo móc thần thoại, văn chương, luân thường hay tôn giáo; mà chỉ có sỏi đá, da thịt, tinh tú và những chân lý tay người có thể sờ mó được”.
Khá dễ nhận ra tầm quan trọng đúng mức của cảnh sắc vùng duyên hải Algérie trong đầu óc của Camus: mặt trời, đá, và khí nóng. Chúng ta có thể hiểu rõ ràng hơn về lập trường của ông trong vấn đề Algérie nhờ những tác dụng của nghèo đói, của lòng tri ân với nước Pháp và nhờ khía cạnh nêu trên trong tâm tính của Camus. Sự cáo chung, sự giải thể của một Algérie thuộc Pháp không những chỉ đánh mất tuổi thanh xuân mà còn nguy hại cướp mất nguồn hứng khởi sáng tạo và lòng vui sướng của ông.
Khi xuất bản ở Pháp cuốn L’Envers et l’Endroit năm 1958, Camus đã giải thích trong lời tựa như sau:
Mọi nghệ sĩ đều giữ trong người một nguồn duy nhất nuôi dưỡng sự hiện diện và lời nói của mình. Khi suối lạch ấy khô nước, dần dà từ từ, công việc, sức sáng tạo co lại trước khi bể nát. Suối nguồn của tôi (trong những luận văn nầy) là …thế giới của nghèo khổ, của ánh sáng mặt trời, tôi đã sống rất lâu trong thế giới ấy.
Vào lúc ông viết những dòng nầy, Camus đã khởi soạn cuốn Le Premier homme, tác phẩm cuối cùng chưa hoàn tất; bản thảo được tìm thấy trong gầm xe Facel Vega dẹp lép sau khi ông chết. Đó là cuốn tiểu thuyết không giống những cuốn trước, xây dựng trên “đá, da thịt, tinh tú và những chân lý tay người có thể sờ mó được”. Và đây là lần khác trở về với suối nguồn:
Vâng, tối nay, trong tâm tư hắn, vâng, mớ rễ khuất chìm quện vào nhau xiết chặt hắn vào vùng đất đầy sợ hãi và tuyệt vời ấy, xiết vào những ngày nắng cháy, vào những buổi hoàng hôn qua nhanh một cách đau đớn; thật giống một đời sống thứ hai, nhưng có thật hơn tất cả bộ mặt hằng ngày của cuộc đời bên ngoài. Về cuộc đời đó, cuộc đời thứ hai, có thể kể tràng giang những mơ ước thầm kín, những cảm giác mạnh mẽ khó tả, mùi hương của trường học, mùi nặc nồng của các chuồng trại trong làng, mùi mồ hôi áo quần trong tay mẹ đem đi giặc, mùi của hoa lài, hoa kèn xóm trên, mùi những trang sách, những cuốn từ điển mà hắn ngấu nghiến, mùi chua phát ra từ phòng vệ sinh trong nhà hay từ tiệm hàng sắt, hương thoảng của những phòng học rộng và lạnh mà hắn đôi lần qua lại trước hay sau giờ học; hơi ấm của bạn thân, mùi len ấm và mùi phẩn dơ mà thằng Didier luôn đeo theo mình; mùi nước hoa mà mẹ thằng bự Marconi tẩm lên người như tưới, đến độ thằng Jacques ở góc kia mà muốn tới ngồi gẩn…. Vâng, (đó là) sự chờ mong, ước mong được sống và sống nhiều hơn đã đẩy hắn trầm mình trong cái ấm áp to lớn nhất mà cái quê nhà nầy có thể đem lại; lúc ấy hắn chưa nhận kịp rằng đó là những gì hắn đã hy vọng từ nơi tay mẹ.
Không một kẻ “thành thị mất gốc” nào (cái tên Tony Judt đặt sai cho Camus) có thể gợi các cảm xúc tận đáy lòng về một quê nhà với một nỗi hoài niệm đam mê như thế. Phần lớn cuộc đời, Camus sống xa xứ; ý nghĩa của sự lưu đày là một tụ điểm chính trong viễn quan của ông. Trí thức và tâm thức của ông đứng hai chân trên hai nền văn hóa của Pháp và Algérie. Nhưng ông không có gì là “mất gốc”. Ông biết một cách tuyệt đối quê nhà ra sao, quê nhà ở đâu; ông biết quê nhà mang ý nghĩa gì trên đời ông. Từ năm 1930 Camus đã thừa nhận những đòi hỏi luân lý của thổ dân và công khai đòi hỏi thỏa mãn những đòi hỏi ấy. Nhưng lòng thiết tha công lý ấy không cho phép bỏ rơi những người khác: ông cố đề nghị một giải pháp khả dĩ bảo vệ quyền của mọi người Algérie. Thất bại, ông phải giữ im lặng.
Khi cha tôi chết – ông cũng là một người ly hương cho đến phút chót – ông để lại một thư viện kếch xù; hằng ngàn cuốn sách thâu tóm trong suốt cuộc đời, để nhiều nơi khác nhau. Những cuốn sách quí, đặc biệt trong thời trung niên được cất giữ riêng hai mươi năm trong bốn mươi thùng bìa giấy để trong cái hầm xi măng bên Highway 401, Napanee, Ontario: gồm  ấn bản đầu tiên tác phẩm của Ionesco, của Max Jacob, bản tiếng Pháp các tác phẩm cổ điển, lịch sử Trung Đông. Trong khối giấy ấy, tôi tìm ra cuốn Noces – một "thư tình" nồng nàn gởi cho quê nhà – một trong 225 bản của nhà in Edmond Charlot, Algériers 1939. Cha tôi đã bảo tôi đi tìm mà đọc; nay mới thấy, khi ông đã qua đời.
Cha tôi có đủ các tác phẩm của Camus, nhưng suốt đời ông ôm giữ tập sách mỏng nầy, nó chất chứa rất nhiều xúc động, tha thiết và đam mê.
Noces có luận văn “Đám cưới ở Tipasa” sống động và đầy cảm xúc; kể lại một ngày viếng thăm phố xưa Tipasa tàn phế của thời La Mã trên bờ biển bắc của Algérie; trong đó, tác giả đã đeo đẳng miệt mài những khoái lạc hầu như khoái lạc thể xác gợi lên bởi vẽ đẹp thiên nhiên quanh người.
“Từ chỗ nầy, tôi biết cái gì gọi là vinh quang: (đó là) quyền yêu thương không giới hạn. Chỉ có một tình yêu trên thế giới nầy. Ôm ấp thân xác một thiếu nữ chẳng khác chi ôm vào lòng niềm hân hoan, niềm vui sướng từ trên trời tuôn xuống biển”.
Cuốn sách bìa cũ mỏng đã được đóng lại khá đẹp; khi bắt gặp nó tôi cũng tìm gặp luôn một cuốn sách khác, một tạp chí thì đúng hơn, La Nouvelle Revue Francaise số tháng hai 1960, còn nguyên chưa rọc, trừ một hay hai trang có in lời khen tặng vội vã người mới qua đời tháng trước. Không ngạc nhiên, sự ngay thẳng của ông – sự ngay thẳng chan hòa với khiêm nhường – đã làm cho tòa soạn hạ bút:
Mọi người đã tìm thấy nơi Camus – cũng như Saint-Exupéry – một nhà văn vừa là một người dẫn đường. Nhưng ông không nhận và trả lời: hằng ngày tôi còn tập đi cho vững, làm sao chỉ đường cho ai!?
 [điểm sách Algerian Chronicles, Albert Camus
The New York Review of Books, Nov 7, 2013]
================================================