Cầu Phú Thứ cách Nam Trung 1 km
NAM TRUNG làng Nam Kỳ ở Huế
Đinh Khắc Thiện
Vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 xứ Thuận Hóa là nơi đã xảy ra nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử đất nước.
Năm 1786 Nguyễn Huệ đem đại quân Tây Sơn từ phía Nam ra hạ thành Phú Xuân từ tay quân Trịnh, chấm dứt thời kỳ thành Phú xuân bị quân Trịnh chiếm đóng.
Năm 1802, Vua Gia Long sau khi đánh bại nhà Tây Sơn thống nhất đất nước lập ra triều Nguyễn, đã đóng đô tại thành Phú Xuân.
Đồng thời với các sự kiện trọng đại này của đất nước, người dân Phú Xuân đã chứng kiến một trào lưu di cư từ các tỉnh phía Nam ra lại Thuận Hóa. Hay còn gọi là hiện tượng nhập cư ngược từ phía Nam ra Phú Xuân, Huế.
Họ là những người theo các đoàn quân của Nguyễn Huệ và Nguyễn Phúc Ánh vào chiếm hay khôi phục Phú Xuân. Họ là những tướng lĩnh, những quân lính, những quan chức dưới trướng của hai vị vua nói trên, sau khi đến kinh đô Phú Xuân làm nhiệm vụ đã đem theo gia đình đến định cư hẳn ở đây, lập nên những dòng họ mới, thậm chí là những ngôi làng mới.
Thời Tây Sơn, đa số các dòng họ này đều xuất phát từ Quảng Nam đến Bình Định, như họ Lê Nhữ làng Mỹ Á (xã Vinh Giang, Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế), họ Phan làng Mỹ Lợi (xã Vinh Mỹ, Phú Lộc, tỉnh Thừa thiên – Huế), một số dòng họ ở làng An Bằng (xã Vinh An, Phú Vang)….
Nhưng đặc biệt là khi Vua Gia Long khôi phục Phú Xuân, ngoài một số người gốc Thuận Hóa là trọng thần của triều đình cùng vua trở về, còn có rất nhiều người gốc Nam bộ đi theo làm nhiệm vụ rồi định cư luôn. Đã tạo nên một lượng cư dân Nam kỳ khá lớn tại Phú Xuân. Họ nhập cư Thuận Hóa theo 3 đợt chính :
- Đợt “Trung tiến” đầu tiên là những công thần theo giúp chúa Nguyễn Phúc Ánh, trong thời kháng chiến (khởi binh từ Long Xuyên, năm 1778), người nổi tiếng nhất trong đợt này là Phạm Đăng Hưng (1765-1825).
- Đợt thứ hai kế tiếp trong khoảng thời gian từ 1802-1862; nổi bật nhất là Phan Thanh Giản (1798-1867) ông quê quán ở trấn Vĩnh Thanh (Kiến Hòa sau này); Phan Thanh Giản là người Nam đầu tiên thi đỗ tiến sĩ (khoa Bính Tuất – 1826).
- Đợt “Trung tiến” thứ ba diễn ra vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, một lượng lớn người Nam giỏi tiếng Pháp ra Huế giúp việc, đã khiến cho lượng người Nam tại Huế khá đông đúc.
Đây là lý do tại sao hiện nay ở Huế có một số dòng họ gốc Nam Kỳ khá nổi tiếng, như họ Phạm Đăng (ở phường Kim Long, thành phố Huế), họ Đoàn cũng ở Kim Long.
Trong các dòng họ này, có một nhân vật của đợt “ Trung tiến” đầu tiên rất nổi tiếng đó là Phạm Đăng Hưng – nguyên là Thượng thư Bộ Lễ triều Minh Mạng ông là người thành lập “Nam châu hội quán” (hay Nam châu tương tế) làm nơi sinh hoạt, gặp gỡ của những người gốc Nam Kỳ ra lập nghiệp ở Thừa Thiên. Trụ sở của “Hội Nam châu Tương tế” là một ngôi nhà khá lớn trên sở đất rộng 2 mẫu 3 sào là quà tặng của Hoàng Thái Hậu Từ Dũ (là con gái của cụ Phạm Đăng Hưng, vợ vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức), ngay sau Phủ Đức Quốc Công từ (nơi thờ cụ Phạm Đăng Hưng) ngay đầu cầu phía Tây của cầu Bạch Hổ. Đây là nơi sinh hoạt và tổ chức các kỳ đại hội lễ tết của dân cư gốc Nam Kỳ sinh sống tại Huế .
Nhưng theo thời gian hội quán của “Hội Nam châu Tương tế” trở nên quá nhỏ so với lượng người Nam Bộ định cư tại Kinh Đô. Và để giúp cho bộ phận cư dân gồm toàn là những người có công với triều đình này có một không gian lớn hơn để làm nơi cúng tế, gặp gỡ vào các ngày lễ tết, năm 1904 Vua Thành Thái đã cấp đất để thành lập thôn Nam Trung (người miền Trung, gốc miền Nam), thuộc làng Phú Đa, tổng Sư Lỗ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên để làm nơi thờ cúng, tế tự cho các dòng họ gốc Nam Kỳ. Làng Nam Trung ra đời từ đó.
Trước năm 1975 làng vẫn mang tên là thôn Nam Trung, thuộc xã Phú Đa, quận Phú Thứ, tỉnh Thừa Thiên; nhưng sau năm 1975 làng lấy lại tên ban đầu là thôn Nam Châu (nay thuộc thị trấn Phú Đa, huyện Phú Vang). Đây là ngôi làng Nam Kỳ duy nhất tại tỉnh Thừa Thiên – Huế hiện nay.
Người có công khai phá hoàn chỉnh làng Nam Trung đầu tiên là cụ Phạm Năng Tuấn (1857-1932) tước vị Hàn Lâm Viện Thị Độc Phụng Thành Đại Phu. Công dân đầu tiên nhập tịch sổ bộ của làng sau ngày thành lập (1904) chính là Phủ Doãn Thừa Thiên cụ Trần Trạm (1857-1938).
Đây là ngôi làng có các cư dân vốn là các trọng thần của triều đình gốc Nam Kỳ, các nhân vật khoa bảng và nhiều nhân vật nổi tiếng của xứ Huế xuất thân hoặc là công dân danh dự của làng, đặc biệt về văn học nghệ thuật.
Cho nên cư dân quanh vùng đã truyền tụng một giai thoại có thật về ngôi làng này, đó là ngôi làng có “quan nhiều hơn dân”, vì thực tế như nói trên đây - “dân làng” đều là quan lại khá giả sinh sống ở Kinh thành, số cư dân ở lại làng rất ít, họ chỉ trở về làng đông đủ khi có việc làng, việc họ.
Do đặc điểm của làng là “quan nhiều hơn dân”, khi có việc làng, việc họ hay chạp giỗ cúng kỵ đều phải thuê mướn dân các làng chung quanh đến làm các công việc nặng nhọc như mổ heo, hạ bò, mang vác cờ lọng nghi vệ cúng tế hay chạp mộ .
Ngôi làng có đầy đủ các tiêu chuẩn của một ngôi làng như quy định của luật pháp thời ấy, dân làng được cấp 9 mẫu đất để làm tế điền và 7 sào đất để làm Từ Đường Cửu Tộc (9 họ) tại huyện lỵ Phú Vang. Buổi đầu ngôi làng Nam Trung hội tụ được 9 họ tộc nguyên quán miền Nam, gồm: họ Phạm Hữu, họ Phan, họ Trần, họ Nguyễn Trọng, họ Nguyễn Trung, họ Đoàn, họ Lê, họ Đặng Ngọc, họ Đinh, về sau có thêm họ Hoàng Trọng.
Vì lý do khá đặc biệt trên đây, làng Nam Trung tuy là một ngôi làng ngụ cư đã sản sinh ra nhiều bậc khoa bảng và văn nghệ sĩ nổi tiếng. Ngoài những công dân danh dự nổi tiếng của làng (là người lập làng nhưng không sinh ra tại làng) như : Phạm Đăng Hưng, Phan Thanh Giản, Trần Đạo Tế, Trần Trạm (Phủ doãn), Đặng Ngọc Oánh (Tuần vũ), Phạm Hữu Văn (Tiến sĩ năm 1913), Nguyễn Trọng Tịnh (Phó Bảng năm 1916)…
Lớp hậu duệ của các cụ cũng khá nổi tiếng, đặc biệt về văn học nghệ thuật, họ Phạm Đăng có họa sĩ Phạm Đăng Trí – là họa sĩ nổi tiếng nhất của xứ Huế, họ Phan Thanh có nhà thơ Phan Thanh Phước, nhà giáo Phan Thanh Hy. Họ Đoàn có Đoàn Nẫm, Đoàn Nông là những nhà nghiên cứu tuồng; họ Trần như Trần diệu Tâm (An Hiên – Paris). Họ Đặng Ngọc có chủ rạp hát bội Ba Tuần ở Huế - Đặng Ngọc Oánh, nhân vật khai sinh ra ngành kịch nói – cậu Năm Hùng, chính là ông Đặng Ngọc Hùng con ông Oánh. Họ Đinh có chủ nhà in ở Gia hội ông Đinh Văn Sum, có họa sĩ Đinh Cường nổi tiếng về tranh trừu tượng…cũng chính là một người dân của làng Nam Châu.
Ngoài ra cũng có khá nhiều công dân danh dự của làng (không nhập tịch) khá nổi tiếng, như: Trương Vĩnh Ký, luật sư Diệp văn Kỳ (1895-1945), cụ Hồ Phú Viên hàm Hiệp Tá (Tuần Phủ),
Đặc biệt một người dân của làng đã được lưu danh tại văn bia tiến sĩ ở Văn Thánh Huế là ông Phạm Hữu Văn (1882-1946) bút hiệu Mai Nam, tiến sĩ khoa Quý Sửu (1913) ; vị tiến sĩ này có ảnh hưởng khá sâu đậm trong lòng người dân làng Nam Trung.
Ở đây có một chi tộc họ Đinh gốc Nam Kỳ. 22.07.2013
Năm 1786 Nguyễn Huệ đem đại quân Tây Sơn từ phía Nam ra hạ thành Phú Xuân từ tay quân Trịnh, chấm dứt thời kỳ thành Phú xuân bị quân Trịnh chiếm đóng.
Năm 1802, Vua Gia Long sau khi đánh bại nhà Tây Sơn thống nhất đất nước lập ra triều Nguyễn, đã đóng đô tại thành Phú Xuân.
Đồng thời với các sự kiện trọng đại này của đất nước, người dân Phú Xuân đã chứng kiến một trào lưu di cư từ các tỉnh phía Nam ra lại Thuận Hóa. Hay còn gọi là hiện tượng nhập cư ngược từ phía Nam ra Phú Xuân, Huế.
Họ là những người theo các đoàn quân của Nguyễn Huệ và Nguyễn Phúc Ánh vào chiếm hay khôi phục Phú Xuân. Họ là những tướng lĩnh, những quân lính, những quan chức dưới trướng của hai vị vua nói trên, sau khi đến kinh đô Phú Xuân làm nhiệm vụ đã đem theo gia đình đến định cư hẳn ở đây, lập nên những dòng họ mới, thậm chí là những ngôi làng mới.
Thời Tây Sơn, đa số các dòng họ này đều xuất phát từ Quảng Nam đến Bình Định, như họ Lê Nhữ làng Mỹ Á (xã Vinh Giang, Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế), họ Phan làng Mỹ Lợi (xã Vinh Mỹ, Phú Lộc, tỉnh Thừa thiên – Huế), một số dòng họ ở làng An Bằng (xã Vinh An, Phú Vang)….
Nhưng đặc biệt là khi Vua Gia Long khôi phục Phú Xuân, ngoài một số người gốc Thuận Hóa là trọng thần của triều đình cùng vua trở về, còn có rất nhiều người gốc Nam bộ đi theo làm nhiệm vụ rồi định cư luôn. Đã tạo nên một lượng cư dân Nam kỳ khá lớn tại Phú Xuân. Họ nhập cư Thuận Hóa theo 3 đợt chính :
- Đợt “Trung tiến” đầu tiên là những công thần theo giúp chúa Nguyễn Phúc Ánh, trong thời kháng chiến (khởi binh từ Long Xuyên, năm 1778), người nổi tiếng nhất trong đợt này là Phạm Đăng Hưng (1765-1825).
- Đợt thứ hai kế tiếp trong khoảng thời gian từ 1802-1862; nổi bật nhất là Phan Thanh Giản (1798-1867) ông quê quán ở trấn Vĩnh Thanh (Kiến Hòa sau này); Phan Thanh Giản là người Nam đầu tiên thi đỗ tiến sĩ (khoa Bính Tuất – 1826).
- Đợt “Trung tiến” thứ ba diễn ra vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, một lượng lớn người Nam giỏi tiếng Pháp ra Huế giúp việc, đã khiến cho lượng người Nam tại Huế khá đông đúc.
Đây là lý do tại sao hiện nay ở Huế có một số dòng họ gốc Nam Kỳ khá nổi tiếng, như họ Phạm Đăng (ở phường Kim Long, thành phố Huế), họ Đoàn cũng ở Kim Long.
Trong các dòng họ này, có một nhân vật của đợt “ Trung tiến” đầu tiên rất nổi tiếng đó là Phạm Đăng Hưng – nguyên là Thượng thư Bộ Lễ triều Minh Mạng ông là người thành lập “Nam châu hội quán” (hay Nam châu tương tế) làm nơi sinh hoạt, gặp gỡ của những người gốc Nam Kỳ ra lập nghiệp ở Thừa Thiên. Trụ sở của “Hội Nam châu Tương tế” là một ngôi nhà khá lớn trên sở đất rộng 2 mẫu 3 sào là quà tặng của Hoàng Thái Hậu Từ Dũ (là con gái của cụ Phạm Đăng Hưng, vợ vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức), ngay sau Phủ Đức Quốc Công từ (nơi thờ cụ Phạm Đăng Hưng) ngay đầu cầu phía Tây của cầu Bạch Hổ. Đây là nơi sinh hoạt và tổ chức các kỳ đại hội lễ tết của dân cư gốc Nam Kỳ sinh sống tại Huế .
Nhưng theo thời gian hội quán của “Hội Nam châu Tương tế” trở nên quá nhỏ so với lượng người Nam Bộ định cư tại Kinh Đô. Và để giúp cho bộ phận cư dân gồm toàn là những người có công với triều đình này có một không gian lớn hơn để làm nơi cúng tế, gặp gỡ vào các ngày lễ tết, năm 1904 Vua Thành Thái đã cấp đất để thành lập thôn Nam Trung (người miền Trung, gốc miền Nam), thuộc làng Phú Đa, tổng Sư Lỗ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên để làm nơi thờ cúng, tế tự cho các dòng họ gốc Nam Kỳ. Làng Nam Trung ra đời từ đó.
Trước năm 1975 làng vẫn mang tên là thôn Nam Trung, thuộc xã Phú Đa, quận Phú Thứ, tỉnh Thừa Thiên; nhưng sau năm 1975 làng lấy lại tên ban đầu là thôn Nam Châu (nay thuộc thị trấn Phú Đa, huyện Phú Vang). Đây là ngôi làng Nam Kỳ duy nhất tại tỉnh Thừa Thiên – Huế hiện nay.
Người có công khai phá hoàn chỉnh làng Nam Trung đầu tiên là cụ Phạm Năng Tuấn (1857-1932) tước vị Hàn Lâm Viện Thị Độc Phụng Thành Đại Phu. Công dân đầu tiên nhập tịch sổ bộ của làng sau ngày thành lập (1904) chính là Phủ Doãn Thừa Thiên cụ Trần Trạm (1857-1938).
Đây là ngôi làng có các cư dân vốn là các trọng thần của triều đình gốc Nam Kỳ, các nhân vật khoa bảng và nhiều nhân vật nổi tiếng của xứ Huế xuất thân hoặc là công dân danh dự của làng, đặc biệt về văn học nghệ thuật.
Cho nên cư dân quanh vùng đã truyền tụng một giai thoại có thật về ngôi làng này, đó là ngôi làng có “quan nhiều hơn dân”, vì thực tế như nói trên đây - “dân làng” đều là quan lại khá giả sinh sống ở Kinh thành, số cư dân ở lại làng rất ít, họ chỉ trở về làng đông đủ khi có việc làng, việc họ.
Do đặc điểm của làng là “quan nhiều hơn dân”, khi có việc làng, việc họ hay chạp giỗ cúng kỵ đều phải thuê mướn dân các làng chung quanh đến làm các công việc nặng nhọc như mổ heo, hạ bò, mang vác cờ lọng nghi vệ cúng tế hay chạp mộ .
Ngôi làng có đầy đủ các tiêu chuẩn của một ngôi làng như quy định của luật pháp thời ấy, dân làng được cấp 9 mẫu đất để làm tế điền và 7 sào đất để làm Từ Đường Cửu Tộc (9 họ) tại huyện lỵ Phú Vang. Buổi đầu ngôi làng Nam Trung hội tụ được 9 họ tộc nguyên quán miền Nam, gồm: họ Phạm Hữu, họ Phan, họ Trần, họ Nguyễn Trọng, họ Nguyễn Trung, họ Đoàn, họ Lê, họ Đặng Ngọc, họ Đinh, về sau có thêm họ Hoàng Trọng.
Vì lý do khá đặc biệt trên đây, làng Nam Trung tuy là một ngôi làng ngụ cư đã sản sinh ra nhiều bậc khoa bảng và văn nghệ sĩ nổi tiếng. Ngoài những công dân danh dự nổi tiếng của làng (là người lập làng nhưng không sinh ra tại làng) như : Phạm Đăng Hưng, Phan Thanh Giản, Trần Đạo Tế, Trần Trạm (Phủ doãn), Đặng Ngọc Oánh (Tuần vũ), Phạm Hữu Văn (Tiến sĩ năm 1913), Nguyễn Trọng Tịnh (Phó Bảng năm 1916)…
Lớp hậu duệ của các cụ cũng khá nổi tiếng, đặc biệt về văn học nghệ thuật, họ Phạm Đăng có họa sĩ Phạm Đăng Trí – là họa sĩ nổi tiếng nhất của xứ Huế, họ Phan Thanh có nhà thơ Phan Thanh Phước, nhà giáo Phan Thanh Hy. Họ Đoàn có Đoàn Nẫm, Đoàn Nông là những nhà nghiên cứu tuồng; họ Trần như Trần diệu Tâm (An Hiên – Paris). Họ Đặng Ngọc có chủ rạp hát bội Ba Tuần ở Huế - Đặng Ngọc Oánh, nhân vật khai sinh ra ngành kịch nói – cậu Năm Hùng, chính là ông Đặng Ngọc Hùng con ông Oánh. Họ Đinh có chủ nhà in ở Gia hội ông Đinh Văn Sum, có họa sĩ Đinh Cường nổi tiếng về tranh trừu tượng…cũng chính là một người dân của làng Nam Châu.
Ngoài ra cũng có khá nhiều công dân danh dự của làng (không nhập tịch) khá nổi tiếng, như: Trương Vĩnh Ký, luật sư Diệp văn Kỳ (1895-1945), cụ Hồ Phú Viên hàm Hiệp Tá (Tuần Phủ),
Đặc biệt một người dân của làng đã được lưu danh tại văn bia tiến sĩ ở Văn Thánh Huế là ông Phạm Hữu Văn (1882-1946) bút hiệu Mai Nam, tiến sĩ khoa Quý Sửu (1913) ; vị tiến sĩ này có ảnh hưởng khá sâu đậm trong lòng người dân làng Nam Trung.
Ở đây có một chi tộc họ Đinh gốc Nam Kỳ. 22.07.2013
====================================
No comments:
Post a Comment