add this

Sunday, May 25, 2025

Trái tim gỗ



       Phụ nữ Ukraine tỵ nạn ở Roumanie

TRÁI TIM GỖ
Yuliia Iliukka * The New York Review of Books, June 12, 2025

Trái tim gỗ mà tôi mang theo người 
như cái khiên cái mộc trên chiến trường xưa
được chạm trổ bởi bàn tay của một giáo sư dạy địa dư từng sống ở tỉnh Melitopol (Ukraine).
Có lẽ vì vậy mà nó giống như cái bản đồ
của những trái tim nơi những người đàn bà đã bỏ xóm làng trong thời ngoại xâm đen tối để đi vào đêm tối tương lai.
"Kẻ thù đã nhảy vô chiếm ngụ nhà của tôi",
giáo sư địa dư nói thế
khi đứng trên một cây cầu ở Bratislava (Slovakia)
bán những trái tim vẽ. Nhà giáo nói tiếp:
"Nếu được, tôi sẽ thắp sáng trái tim tôi
như ngọn đuốc, rọi sáng đường về quê tổ, đúng mục đích của ánh lửa.
''Và rồi, có thể rằng
ánh lửa ấy sẽ ngăn chận chấn thương sợ hãi vì còi báo động oanh tạc, như tín hiệu thời tiết đổi thay".
''Trái tim tôi, giáo sư địa dư tiếp tục, 
đã thành đá cuội vì căm thù.
Tôi là một người đàn bà bằng gỗ
bán những trái tim gỗ 
trên cây cầu gió cuốn nầy.
Xin vui lòng 
nhận quả tim nầy làm quà lưu niệm.
Có thể, có thể lắm,
đó là một trái tim thật".
Tĩnh Vật
Tôn Thất Tuệ * 1984

Tôi chết mất một sáng mai sầu nhớ
ở quanh tôi sách vở ơ thờ
những cây bút mực khô mất hết máu
một cành hoa ủ rủ nhựa đông dày.

Tôi chết mất một buổi mai sầu nhớ
những con người bằng gỗ hay bằng nhung
trong tủ kính ướp thời Ai Cập
không biết cười nhưng mặc áo rất xinh.

Xin sống dậy những con người bằng gỗ
xin thốt tên, những thiên thần bằng sứ
tiếp nhận tôi vào thế giới không hồn
tôi đã chết trước khi các ngài hiện diện.

Xin tiếp tôi vào thế giới không hồn
tôi sẽ hát cho các ngài một khúc nhạc
bằng những tiếng rơi của mảnh vỡ tâm hồn
những tiếng rụng của cánh tay băm nát
dưới nhát dao của những sợi tơ
vấn tôi lại như tù binh thất trận,
Ở trong tôi đã có một thế giới không hồn.-

Lessons of Geography
Yuliia Iliukka  The New York Review of Books, June 12, 2025

The wooden heart
I wear over my own
like a tiny armor plate
was carved by the hands of a geography teacher
from Melitopol.
Maybe this is why it looks like a map
of all the hearts of all the women
who left their homes in the dark of occupation,
marching into the darkness of their future.
“Enemies live at my place now,”
says the geography teacher
who sells painted hearts
on a bridge in Bratislava.
“If I could
I’d light up my own
like a torch
to show the way home, the target of fire.
And then maybe
it would stop aching during each air raid siren
as if signaling a change of weather.”
“My heart,” says the geography teacher,
“is petrified with hate.
I am a wooden woman
selling wooden hearts on a windswept bridge.
There’s a dash instead of a place of residence in my biography.
Please
take this heart as a gift.
Maybe it’s
the real one.”
(translated from Ukrainian by Anna Antonova, lecturer at the University of Alberta).

================================================

Đà Lạt xưa




Saturday, May 24, 2025

Trà thư, chương 5,


Thưởng Ngoạn Nghệ Thuật
theo sách Trà Thư

Tiền luận của Tôn Thất Tuệ ◙ 1953, ở lớp đệ ngũ, trong giờ Việt ngữ, tôi có học bài giảng văn Trà Thư của Khái Hưng. Chỉ bấy nhiêu thôi và bài nói về hoa bắt đầu với việc chê trách trồng hoa chậu là trái với thiên nhiên, ca ngợi lòng thành của người đời dành cho hoa như triết gia Vương Dương Minh ngồi trầm trồ với đám cúc. Và tôi nhớ mãi ở phần cuối có câu nói của một hoàng hậu Nhật Bản: Hoa ơi, nếu ta ngắt hoa thì tay ta làm hoa ô uế, ta chỉ muốn trông hoa ngoài nội cỏ để dâng lên Đức Phật Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai.
Giáo sư là thầy Huyền Anh, tay trái thầy không dùng và luôn đeo găng tay len. Đường rẻ tóc trên đầu chạy theo một sẹo dài như bị chém. Tôi thấy lạ cái tên Huyền Anh không giống các tên khác thông thường như thầy Cao Hữu Triêm, thầy Nguyễn Văn. Tôi nghe lõm bõm thầy người Sịa, vết thương trên đầu và bàn tay liệt là thầy thoát chết trong vụ thanh trừng trí phú địa hào 1945 tại Sịa; ai ở Sịa lúc nầy có thể biết nạn nhân trí thức khác là cậu Thừ, em của dì Mộng. 
Trở về bài giảng văn, thầy Huyền Anh không nói gì về Khái Hưng và không giải thích vì sao có đầu đề Trà Thư.

Khái Hưng thì lên đến đệ tam mới biết sơ sịa qua Tự Lực Văn Đoàn. Dần đà chúng tôi biết thêm Trà Thư là tên cuốn "The Book of Tea" mà cũng chưa rõ là bản dịch hay được viết trực tiếp tiếng Anh. Saigon có cho in một bản dịch của Bảo Sơn, Lá Bối xuất bản 1967 .

Ngày nay tìm hiểu thêm, bài Trà Thư của Khái Hưng có những yếu tố ghi trong chương áp cuối "Hoa" của The Book of Tea. Xem đó như một bản trích dịch, đối chiếu câu hát của hoàng hậu Komio "If I pluck thee, my hand will defile thee, O flower! Standing in the meadows as thou art, I offer thee to the Buddhas of the past, of the present, of the future". Bản liệt kê tác phẩm của Khái Hưng không có gì liên hệ đến cuốn sách nầy.

Trước đây tôi có viết về cây ngô đồng và có hứa sẽ trình bày cây ngô đồng trong Trà Thư. Chuyện cây ngô đồng chỉ là phần nhỏ mở đầu một chương tương đối khó về cách thưởng lãm nghệ thuật. Bản Việt ngữ đính kèm không nói rõ là cây gì và dùng chữ Nhật là kiri, trong lúc ấy Bảo Sơn dịch là cây ngô đồng; ngô đồng là loại gỗ làm đàn.
The Book of Tea nguyên thủy viết bằng Anh ngữ năm 1906 bởi Okakura Kakuzo (岡倉 覚三1863-1913). Kakuzo học tiếng Anh từ nhỏ và đến khi thành thục ngoại ngữ nầy mới học Hán Tự. "The Book of Tea" hòa lẫn khía cạnh thế tục về trà và cuộc sống Nhật cùng triết lý Thiền và Đạo học. Cuốn sách đã đi vào ngay trong thế giới triết học Tây Phương và Heiddeger đã vội vã cho rằng Kakura hoàn toàn bị chinh phục bởi Trang Tử, nhiều người không đồng ý. Okakura đã khơi mào môi trường thuận tiện cho Thiền Học, làm xúc tác đáng quý cho học giả Thiền đích thực là Suzuki. Nhiều thư viện internet đã liệt kê hai tác phẩm của ông vào mục Phật Giáo Bắc Tông.
Trà Thư xuất hiện năm 1906, một năm sau khi Nhật thắng Nga trong cuộc chiến ở Mãn Châu, Triều Tiên. Chiến thắng nầy làm thế giới  không còn gọi Nhật là một dân tộc mọi rợ. Nhưng Kakuzo tỏ ra đáng tiếc, quê hương của ông được biết đến vì những thảm sát chiến tranh trên bán đảo Liêu Đông. Ông ngầm nói Nhật Bản của ông rất văn minh ngàn năm, nó như thế nầy, dù chỉ mới nói một chuyện là uống trà, thành một thứ đạo gọi là trà đạo, không tách lìa nghệ thuật và tâm linh.
Trước đó 2 năm (1904) Kakuzo ra đã xuất bản cuốn The Ideals of the East (Những Lý Tưởng của Đông Phương), liên quan đến PG nhiều hơn, tuy rằng tác giả không quên nghệ thuật các ngành nói chung. Cuốn sách quá khó, chúng tôi dội lui nhưng câu mở đầu mang một nhận định rõ ràng nhất về sự khác biệt Đông Tây.
"Á Châu là một. Hy Mã Lạp Sơn đã chia thành hai nền văn minh to lớn. Trung Hoa chủ trương cộng đồng sống chung theo Khổng Tử; và Ấn Độ chủ trương từng cá nhân tự thức tĩnh theo kinh Vệ Đà. Nhưng những ngọn núi tuyết nầy không ngăn chận lòng tha thiết đối với (điều gọi là) Tối Thượng và Phổ Quát, để tạo ra các tôn giáo lớn nhất thế giới ăn sâu vào đời sống tâm linh các các dân tộc Á Châu; làm nổi bật sự khác biệt với các dân tộc miền biển ở Địa Trung Hải và Baltic; những dân tộc nầy chỉ chú trọng đến các đặc thù riêng biệt, chỉ mưu cầu các phương tiện của đời sống; chứ không nghĩ đến cứu cánh của đời sống" *
.
[*ASIA is one. The Himalayas divide, only to accentuate, two mighty civilisations, the Chinese with its communism of Confucius, and the Indian with its individualism of the Vedas. But not even the snowy barriers can interrupt for one moment that broad expanse of love for the Ultimate and Universal, which is the common thought-inheritance of every Asiatic race, enabling them to produce all the great religions of the world, and distinguishing them from those maritime peoples of the Mediterranean and the Baltic, who love to dwell on the Particular, and to search out the means, not the end, of life. * Hai chữ individualism và communism chúng tôi không dịch theo nghĩa hiện thời là chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa cộng sản. Hai chữ nầy hiện tại mang hai nghĩa khác với nghĩa trong bài. Individualism trong bài hướng về chủ trương mọi con người có khả năng hướng thiện, tự giải thoát; các lý thuyết luân lý và tôn giáo nhằm giúp từng cá nhân chứ không giải quyết tập thể như một đàn cừu theo những giáo lệnh như nhịp gõ của cây gậy trong tay kẻ chăn chiên. Communism của Kakuzo xuất hiện 1906 tức là 11 năm trước cách mạng Nga của Lenine. Communism từ lúc đó mới được hiểu theo nghĩa CS ngày nay; hơn nữa chủ trương của Khổng Tử khác chủ trương CS. Khổng Tử lo về một đời sống cộng đồng của quốc gia, phải có mối tương tác hòa nhịp, có trật tự: quân quân thần thần phụ phụ tử tử. Chủ trương của CS Tàu xem Khổng Tử là kẻ thù, cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông nhằm phá vỡ xã hội xây dựng trên lý thuyết Khổng Tử.]


THƯỞNG NGOẠN NGHỆ THUẬT
Chapter V:  Art Appreciattion, The Book of Tea
Phan Quang dịch

Các vị có biết câu chuyện kể của Đạo gia về Cây đàn đợi chủ?
Ngày xưa, xưa lắm, tại của động Long Môn mọc một cây kiri, chúa tể thực sự của sơn lâm. Ngọn nó cao tới mức có thể trò chuyện cùng các vì sao trên trời. Rễ nó đâm rất sâu, cuộn thành những cái vòng của con Rồng Bạc đang ngủ yên trong lòng đất. Về sau có một pháp sư cao cường đốn hạ cay kiri ấy xuống, lấy gỗ nó làm thành một cây đàn kỳ diệu. Tuy nhiên cây đàn này hết sức ngang ngạnh, chỉ có bàn tay của bậc nhạc sĩ kỳ tài mới sử dụng được mà thôi. Cây đàn trở thành một báu vật của hoàng đế Trung Hoa. Có rất nhiều người từ khắp nơi đã về kinh xin thử dùng cây đàn nhưng không một ai có thể gảy nên thục thức. Ai cố gắng lắm thì cũng chỉ buộc được cây đàn phát ra những tiếng chát chúa như tuồng miệt thị cả người chơi. Nó khăng khăng không chịu hoàn tiếng tơ cùng giọng hát người nghệ sĩ. Nó không chịu nhận bất kỳ ai là chủ nhân của mình.

Mãi sau gặp Bá Nha, một tay đệ nhất danh cầm. Bàn tay dịu dàng người nhạc sĩ bắt đầu vuốt ve cây đàn như thể người ta tìm cách vỗ về một con ngựa bất kham, lát sau mới nhẹ nhàng đọng tới các sợi tơ. Rồi nhạc sĩ cất cao tiếng hát ngợi ca thiên nhiên và thời tiết bốn mùa, những đỉnh núi chọc trời và những ngon suối róc rách; vậy là bỗng nhiên như thể các kỷ niệm xưa của cây đại thụ bừng tỉnh. Và người ta bỗng lại nghe như đâu đây có ngọn gió xuân vừa thổi tới, mơn man cành lá cây rừng. Lại tưởng thấy những ngọn thác nhảy múa dưới vực thẳm, nước toé lên như thể mỏm cười với những bông hoa vừa hé nụ. Lại tháng nghe giọng hát mơ màng của mùa hạ qua tiếng vo ve của muôn vàn côn trùng, con chim tu hú hót, con mưa hè dồn dập. Hãy lắng nghe kìa: Có phải một con hổ vừa cất tiếng gầm đâu đây, và ngàn sâu ngân vang lời đáp lại. Nhưng mùa thu lại đến rồi. Trong đêm thâu thanh vắng, trăng non sắc như lưỡi liềm chiếu lấp lánh những giọt sương sa đầu ngọn cỏ. Kế đó là màu đông; giữa những bầu trời trắng xoá tuyết rơi, những đàn thiên nga vội vã lượn vòng bay tìm nơi trú rét, những hạt mưa đá bộp bộp gõ xuống các cành cây với một niềm vui hoang dại.

Rồi Bá Nha đổi giọng. Nhạc sĩ chuyển sang những khúc hát ca ngợi tình yêu. Rừng cây cúi đầu như thể một chàng trai long nồng cháy yêu thương chìm đắm trong suy tư. Trên trời cao đám mây rực rỡ bay qua, kiêu sa tựa một nàng trinh nữ khoác tấm áo mây dài, mây bay đến đâu là kéo theo lê thê cái bóng phủ xuống mặt đất như rải những tuyệt vọng. Sau Bá Nha lại đổi giọng nữa rồi. Lần này chàng hát về chiến chinh, nghe  loảng xoảng gươm đao trong tiếng ngựa hí vang trời. Vậy từ cây đàn bỗng dậy cơn bão tố trước Động Long Môn, như có con rồng dữ cưỡi làn chớp bay vút lên trời, như có băng tuyết đất đá ầm ầm lỏ xuống từ sườn núi cao. 
Hoàng Đế Trung Hoa ngạc nhiên đến sững sở, hỏi Bá Nha đâu là bí quyết thành công. Chàng đáp: “Tâu bệ hạ, những người trước kia thất bại vì họ chỉ biết ngợi ca mình. Thần để cho cây đàn tự nó chọn những chủ đề nó ưa thích, mà thật ra lúc vừa hát vừa đệm đàn, chính thần cũng không rõ cây đàn là Bá Nha hay Bá Nha là cây đàn”.

Câu chuyện trên minh họa thật tài tình cái huyền diệu trong thưởng ngoạn nghệ thuật. Mỗi kiệt tác là một bản giao hưởng thể hiện những tình cảm tinh tế nhất của con người. Nghệ thuật đích thực, ấy là Bá Nha còn chúng là ta là cây đàn Động Long Môn.

Cây đũa thần của cái Đẹp khua những sợi dây đàn bó ẩn trong tâm hồn ta tỉnh giấc. Trước lời kêu gọi của cái đẹp, những sợi tơ lòng rung lên và ta bỗng dưng xúc động. Tâm hồn nói với tâm hồn. Chúng ta ngghe rõ những lời không thốt ta, chúng ta nhìn thấy cái vô ảnh vô hình. Bàn tay nghệ sĩ khơi gợi nơi ta những giai điệu ta chưa từng biết. Bao kỷ niệm lãng quên từ lâu bỗng lại hiện về trong lòng ta mang theo ý nghĩa mới. Những niềm hy vọng bóp nghẹt vì lo âu, những đam mê ta chưa hề dám tỏ bày trở lại thôi thúc ta với một vầng hào quang mới. Tâm hồn ta là tấm vải căng sẵn trên khung để bàn tay nghệ sĩ đặt lên đó các màu sắc, những mảng sáng nói lên niềm vui của chúng ta, những mảnh tối là nỗi buồn của lòng ta đó. Kiệt tác ở trong ta và ta ở trong kiệt tác.

Sự đồng cảm tối cần cho thưởng ngoạn nghệ thuật dựa trên nền tảng nhân nhượng lẫn nhau. Người xem phải chuẩn bị tâm hồn để tiếp nhận thông điệp, còn nghệ nghệ sĩ phải biết cách truyền tải thông điệp ấy đi. Koboro Enshu, một trà sư nổi tiếng và cũng là một đại thần từng có câu nói đáng ghi nhớ: “Bạn hãy tiếp xúc một nghệ sĩ lớn như thể tiếp xúc một bậc đại vương”. Muốn hiểu được một kiệt tác, bạn hãy cúi đầu thật thấp và chờ đợi, bãn hãy nín thở cố lắng nghe những gì kiệt tác sẽ nói lên với mình. Một nhà phê bình nghệ thuật trứ danh đời Tống có lần thốt ra một lời thú nhận đáng yêu: “Khi tôi còn trẻ, tôi ngợi khen bà danh họa đã sáng tạo nên những bức tranh mà tôi thích, dần dần già dặn thêm, tôi lại tự khen mình đã biết thích những gì nhà danh hoạ đã chọn lựa khiến cho tôi thích nơi búc tranh ấy”. Thật đáng phàn nàn là trong chúng ta rất ít người quan tâm nghiên cứu phong cách của các nghệ sĩ bậc thầy. Cứ khư khư cái dốt nát của mình, chúng ta đã không làm nổi điều lịch sự tối thiểu ấy, vì vậy chúng ta đã không thưởng thức nổi đại tiệc nghệ thuật đang bày ra trước mắt. Nghệ sĩ bậc thầy lúc nào cũng có cái gì đó để mời chúng ta thưởng thức, vậy mà chúng ta ra về lúc nào bụng cũng vẫn đói meo chỉ vì không có đầu óc thẩm mỹ.

Ngược lại, với những ai có khả năng thưởng ngoạn, tạo được sự đồng cảm của tâm hồn với nghệ thuật, mỗi kiệt tác sẽ trở thành một thực tế sống động đủ sức cuốn hút ta qua những mối liên hệ bạn bè. Các nghệ sĩ bậc thầy sở dĩ bất tử, là vì tình yêu thương của họ, những âu lo của họ mãi mãi sống nơi lòng ta. Tâm hồn chứ không phải bàn tay, con người chứ không phải kỹ thuật đã cất lời kêu gọi ta, và lời kêu gọi càng mang tính người thì sự đáp lại của ta càng sâu sắc, và chính nhờ sự đồng tình giao cảm bí huyền ấy mà chúng ta có thể cùng đau khổ cùng hạnh phúc với những nhân vậttrong thi ca và tiểu thuyết. Nhà viết kịch Chikmatsu Sheakespeare của Nhật Bản chúng tôi, cho rằng một trong những nguyên lý thiết yếu của sáng tạo kịch nghệ là khơi gợi được niềm tin nơi công chúng. Một lần, các học trò của ông cùng đệ trình khá nhiều kịch bản, ông chỉ thích có một. Đấy là một vở kịch ít nhiều tương tự vở “hài kịch của những nhầm lẫn” nói về chuyện hai anh em sinh đôi luôn bị người ta nhận nhầm vì giống nhau như đúc. Chikamatsu nói : “Ừ, ta cảm thấy vở kịch này có tinh thần của kịch nghệ , bởi vì nó có quan tâm đến công chúng; nó làm cho khán giả khi xem hiểu rõ vở kịch hơn các diễn viên, Khán giả hiểu do đâu có sự nhầm lẫn, và đem lòng thương hại các nhân vật trên sân khấu cứ mãi ngây thơ lăn xả vào số phận”.

Các nghệ sĩ bậc thầy ở phương Đông cũng như phương Tây chưa bao giờ coi nhẹ tầm quan trọng của cách làm sao khơi gợi cho được sự đồng cảm của khán giả đối với cái bí ẩn trong tác phẩm của mình. Có ai không cảm thấy hãi hùng trước nội dung tư tưởng mênh mông nó mang lại? Có kiệt tác nào của các bậc thầy mà không khiến cho người xem cảm thấy yêu thương mến mộ? Ngược lại, các tác phẩm thời nay cái nào cũng na ná cáo nào như được rập từ một cái khuôn thì lạnh lùng vô cảm biết ngần nào! Một đằng là sự giải bày nồng nhiệt của tâm hồn con người, một đằng chỉ là biểu hiện công thức. Các nghệ sĩ hiện đại thường nô lệ vào kỹ thuật cho nên ít chịu nâng mình lên cao hơn con người của chính họ. Cũng giống như các nhạc sĩ từng thất bại không sử dụng được cây đàn Động Long Môn, các giai điệu của người nghệ sĩ ngày nay chỉ toàn hát về mình. Nếu tác phẩm của họ có tiền gần đến khoa học, thì chắc chắn chúng ngày càng rời xa con người. Có một câu ngạn ngữ cổ ở Nhật Bản nói rằng, phụ nữa không thể nào yêu một người đàn ông kiêu ngạo quá chừng, bởi trong trái tim luôn đầy ắp kiêu căng của chàng ta làm gì còn chừa khe hở nào nữa đâu để cho tình yêu có thể len vào trong đó. Trong nghệ thuật, lòng kiêu căng bao giờ cũng tai hại cho sự đồng cảm, bất kể sự kiêu căng ấy xuất phát từ người nghệ sĩ hay từ công chúng mà ra.

Còn có gì thánh thiện hơn sự hòa hợp giữa những tâm hồn đồng cảm thông qua nghệ thuật? Vào những phút giây lòng người gặp được lòng người, ai yêu nghệ thuật đều cảm thấy như tự mình cũng được nâng lên. Người ta có cảm thấy mình là đồng thời mình, cũng không còn là chính mình. Họ nhìn thoáng thấy cái vô cùng nhưng không làm sao đủ sức diễn tả hết niềm vui, vì con mắt làm gì có lưỡi. Tinh thần được giải thoát khỏi thể chất, tha hồ bay bổng theo vũ điệu của vạn vật. Chính nhờ vậy mà nghệ thuật gần gũi với tôn giáo và làm cho loại người thêm cao quý. Chính nhờ vậy, kiệt tác nghệ thuật trở thành gần tựa vật thiêng. Người Nhật Bản thời xưa lúc nào cũng bày tỏ sự ngưỡng vọng hết mức đối với tác phẩm của những nghệ sĩ lớn là do vậy. Bác bậc trà sư cất giữ báu vật của mình cẩn trọng như giữ đồ thờ phụng. Muốn xem, phải mở cả một loạt hòm, hòn to chứa hộp nhỏ, mở mãi mới lấy ra được cái vật báu gói bọc cẩn thận trong tấm lụa mượt mà chẳng khác nào đó là một di vật tối thiêng liêng. Báu vật ít khi mang ra cho mọi người cùng xem, trừ ai cùng hội cùng thuyền.

Và cái thời trà đạo đạt đến tột đỉnh cao, các tướng lĩnh lập được nhiều chiến tích thường mong được triều đình tặng thưởng một tác phẩm nghệ thuật quý hiếm hơn là ban cho một thái ấp. Vì vậy nhiều vở kịch được công chúng mến mộ nhất thường đề cập đến chủ đề, qua nhiều gian truân cuối cùng tìm lại được một kiệt tác phiêu lạc. Có một vở diễn lại câu chuyện, tại dinh thự của hầu tước Hosokawa có tàng trữ một bức tranh của danh họa Tuyết Thôn vẽ Đức Lạt Ma. Một hôm, do sự bất cẩn của viên võ sĩ đến phiên trực, hỏa hoạn bùng phát. Quyết tâm cứu cho được bức danh họa bằng bất cứ giá nào, võ sĩ lao vào ngôi nhà đang bốc cháy dữ dội, tìm cách giật lấy bức tranh, Nhưng mọi lối thoát đều đã bị ngọn lửa bịt kín hết rồi. Vậy là để bảo toàn bằng được bức tranh quý, chàng môn đò võ sĩ đạo liền rút gươm tự rạch bụng mình, xé một cánh tay áo cuộn kín tấm lụa tác phẩm của Tuyết Thôn, rồi nhét luôn vào bụng qua vết cắt vừa mới mở. Khi đám cháy được dập tắt, người ta tìm thấy trong đám tro tàn bốc khói một thi thể hầu như đã cháy rụi song vẫn còn ôm gọn trong lòng cái báu vật nhờ vậy bức kiệt tác được bảo toàn. Cho dù câu chuyện hơi quá bị thương, nó minh họa tài tình, cùng với lòng tận tụy của một võ sĩ trung thành, cái giá và người Nhật chúng tôi vẫn đặt vào một kiệt tác.

Tuy nhiên, xin chớ quên rằng, một tác phẩm nghệ thuật chỉ có giá trị trong chừng mực nó nói lên được điều gì đó với chúng ta. Nó có thể nói bằng ngôn ngữ phổ thông nhất, người bất cứ nước nào đều có thể nghe có thể hiểu, nếu chúng ta cũng học được cách bày tỏ tình cảm của mình đối với tác phẩm nghệ thuật bằng ngôn ngữ chung. Bản thể con người vốn đã hạn chế, lại gánh thêm sức nặng của truyền thống và những ước lệ của xã hội, cộng với những gì thừa hưởng được từ di truyền nằm sâu trong các bản năng, làm cho năng lực thưởng ngoạn nghệ thuật của chúng ta càng trở nên hạn hẹp. Cá tính của mỗi người, theo cách nào đó cũng giới hạn hiểu biết, vì vậy ta thường có thói nghiêng theo thiên hướng tìm những cái gì quen thuộc với mình trong các tác phẩm thời quá khứ. Đúng là nếu chúng ta chịu khó thường xuyên trau dồi dần dần rồi sẽ có khả năng thưởng ngoạn nhiều dạng thức của cái đẹp mà trước đây ta vẫn tưởng không cách nào tiếp xúc. Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta thường chỉ nhìn thấy hình ảnh của mình trong vũ trụ, đã thế tính cách riêng của mỗi người lại chi phối cảm nhận cá nhân về nghệ thuật. Các bậc đại trà sư xưa nay chỉ sưu tập những vật thật sự phù hợp với mỹ cảm riêng của mình.

Nhân đây, tôi chợt nhớ một câu truyện lưu truyền về trà sư Kobori Enshu. Các môn đệ ông hay ngợi ca mỹ cảm tuyệt vời của thầy thể hiện qua bộ sưu tập riêng các báu vật. Môn đệ khen: “Vật nào cũng đẹp, khiến bất kỳ ai được nhìn thấy cũng khó ngăn nổi trầm trồ. Điều đó chứng tỏ mỹ cảm của thầy cao hơn hẳn đại trà sư Rikyiu, bởi cả ngàn người xem mới có được một người đủ khả năng thưởng thức cái đẹp những vật mà ngài Rikyiu sưu tập”. Nghe vậy, Enshu buồn rầu đáp “Đó rõ ràng là chứng cứ về sự tầm thường kém cỏi của ta. Ngài Rikyiu vĩ đại có đủ dung khí chỉ yêu thích những gì thật sự hấp dẫn riêng ngài, trong khi đó ta lại tự xếp mình một cách vô thức vào sở thích của số đông. Rõ ràng cả ngàn trà sư mới có được một vị như ngài Rikyiu.

Ngày nay, thật đáng buồn, nỗi nhiệt tình hời hợt của chúng ta đối với nghệ thuật không dựa trên tình cảm thực nào. Vào thời buổi gọi là dân chủ như thời đại chúng ta ngày nay, người ta chỉ biết gào thét ngơi ca những gì mà số đông coi như tốt đẹp hơn tất thảy các thứ khác, mà không hề cân nhắc đến tình cảm thật của riêng mình. Người ta bỏ cái tinh tế để chuộng thứ đắt tiền, ruồng rẫy cái đẹp mà chạy theo thời thượng. Đối với quảng đại dân chúng thì đã có sẵn những tờ tạp chí in đầy tranh ảnh minh họa, sản phẩm thật xứng đáng với lòng tôn sùng kỹ nghệ của xã hội ngày nay, thường xuyên cung cấp các món ăn nghệ thuật dễ tiêu hóa hơn nhiều so với thưởng ngoạn những kiệt tác thời cổ đại ở Ý hay của các danh họa triều đại Ashikaga Nhật Bản, mà mọi người ai cũng luôn miệng cho rằng mình hết sức ngưỡng mộ. Dưới con mắt của số đông, tên tuổi người nghệ sĩ quan trọng hơn phẩm chất tác phẩm. Cách đây mấy thế kỷ, một nhà phê bình nghệ thuật Trung Hoa đã phàn nàn: “Thiên hạ đời nay đánh giá hội họa bằng lỗ tai”. Chính sự thiếu vắng đầu óc thẩm mỹ là nguyên nhân dẫn đến việc sản xuất ra hàng loạt tác phẩm cổ điển dởm bày la liệt khắp chốn khắp nơi, mà cho dù ta có quay mặt đi đâu cũng không tránh khỏi nhìn thấy.

Một sai lầm khác không kém phần phổ cập là nhầm lẫn nghệ thuật với khảo cổ học. Sự sùng kính đối với nghệ thuật thời cổ đại là một trong những nét cao quý nhất của các đức tính loài người, và chúng ta cầu mong cho đức tính ấy ngày càng tỏa rộng, lan sâu hơn nữa. Các nghệ sĩ bậc thầy thời thượng cổ xứng đáng được mọi ngưỡng vọng, bởi các vị có công mở đường khai hóa cho hậu thế. Riêng cái việc giản đơn là tác phẩm của họ đã vượt lên không biết bao lời phê bình chỉ trích để còn lại tới ngày nay, để đến với chúng ta mang theo toàn bộ hào quang, đã đủ cho mọi người tôn sùng họ. Tuy hiên, chúng ta sẽ là những kẻ ngốc nếu chỉ đơn thuần căn cứ vào thời gian xa hay gần, tức là vào tuổi của tác phẩm, để đánh giá mức độ thành công của chúng. Vậy mà chúng ta vẫn thường để cho tình cảm mến mộ lịch sử vượt lên trên năng lực thẩm định mỹ học. Phải chờ cho đến lúc người nghệ sĩ nằm yên trong nấm mồ, chúng ta mới mang dâng họ bó hoa tán thưởng. Thế kỷ XIX là thế kỷ sản sinh thuyết tiến hóa, nhựng nó lại có cái không hay là tạo cho mọi người thói quen để cá nhân chìm khuất trong chủng loại. Một nhà sưu tập luôn quan tâm tìm kiếm những tiêu bản đại diện cho một thời đại hay một trường phái, mà quên mất rằng chỉ cần một kiệt tác thôi là đủ soi sáng chúng ta về cả một thời đại hay một trường phái nghệ thuật, hơn là số lượng lớn mà chỉ gồm những tác phẩm tầm thường của thời đại hay trường phái ấy. Chúng ta quá thiên về phân loại học mà coi nhẹ thưởng ngoạn. Xu hướng mở quá nhiều cuộc triển lãm mệnh danh khoa học mà không quan tâm đúng mức ý nghĩa mỹ học, là nguyên nhân dẫn đến sự tàn tạ của nhiều viện bảo tàng ngày nay.

Cho dù nhìn về bất cứ góc độ sống động nào của thực tại, thì các quyền của nghệ thuật hiện đại không thể không được con người biết đến. Nghệ thuật hôm nay là cái thực sự thuộc về chúng ta, bởi nó phản ánh chính chúng ta. Bài bác nó, tức là ta tự bài bác ta. Bảo rằng thời đại chúng ta ngày nay không còn có nghệ thuật, vậy thì lỗi ấy tại ai? Đối với người xưa, chúng ta quen ca ngợi không tiếc lời, nhưng lại chẳng mấy ai quan tâm đến những khả năng cùng thời với mình, quả là điều đáng hổ thẹn. Vậy mà thời đại chúng ta có thể biết bao nghệ sĩ đang chiến đấu, biết bao tâm hồn đang kiệt lực vì lao động miệt mài cho cái đẹp thì ta lại bỏ mặc, để cho lụi tàn trong tối tăm chẳng được ai đoái hoài. Cái thế kỷ tự cho mình là trung tâm của vũ trụ này đã tạo cho người nghệ sĩ được cảm hứng gì? Quá khứ có thể đang thương hại nhìn sự nghèo nàn của nền văn minh hiện đại, tương lai sẽ cười cho cái khô cằn của nghệ thuật thời nay. Chúng ta đang hủy hoại nghệ thuật bằng cách hủy hoại cái đẹp trong lòng cuộc sống. Liệu có thể xuất hiện một đại pháp sư cao cường đủ tài sức đẽo từ cái than của xã hội chúng ta hôm nay để làm nên một cây đàn kỳ diệu mà mọi sợi tơ đồng sẽ rung lên dưới bàn tay lướt nhẹ của thiên tài?
============================================

 


Thursday, May 22, 2025

giáo sư Nguyễn Đăng Thục




Giáo sư Nguyễn Đăng Thục
Người Thầy Của Tôi
Phạm Đạt Nhân
(blogspot Phạm Hạnh 2017)


Cô bất tai cô tai cô tai (*)
Tôi xin mạn phép Khổng Tử buông lời bắt chước:
Sư bất tai sư tai sư tai !?
Thầy không ra thầy mà cũng bảo là thầy sao?!
Đã là thầy thì phải có tư cách mẫu mực mô phạm. Còn thầy mà bảo học trò hãy nghe những gì thầy nói mà đừng làm theo những gì thầy làm thì hởi ôi chẳng phải là thầy. Hạnh phúc thay cho những ai có được một người Thầy đúng nghĩa, chính danh.
Tôi may mắn có được cái hạnh phúc ấy.
Thầy tôi là một giáo sư lão thành vừa dạy học vừa viết sách vừa thực sống theo những gì mình nói và viết – suốt một đời làm nghề giáo: Thầy NGUYỄN ĐĂNG THỤC. Cách nay gần bốn mươi năm tôi vừa là học trò vừa phụ khảo, phụ giảng cho thầy. Vào mùa xuân năm 1976 tôi đến thăm thầy và không ngờ đó là chuyến thăm cuối cùng; bởi từ đó đến nay tôi không còn gặp thầy nữa .

Theo phong tục xưa, tôi đến thăm thầy vào mùng ba Tết .
Nơi ở của thầy đúng là cảnh lâm tuyền mà nếp thị thành. Một ngôi nhà ngói cổ đơn sơ tọa lạc giữa một khu vườn rộng trồng cây ăn trái. Ngôi nhà có ba gian . Gian chính thờ Phật, hai gian bên thờ ông bà và tiếp khách. Còn nơi làm việc của Thầy là một căn nhà riêng biệt nằm vuông góc với ngôi nhà. Thầy mời tôi ngồi. Thầy tiếp tôi như tiếp một đồng nghiệp. Tôi ngồi xếp chân ở một bên không trực diện với thầy. Thầy tự tay châm trà, còn tôi đưa hai tay vin vào tách trà. Đó là cách giao tiếp với người lớn mà học sinh ngày đó được dạy như vậy. Sau vài câu chuyện thăm hỏi, thầy đưa tôi sang xem căn nhà làm việc của thầy. Căn nhà có nhiều phòng, trong phòng có nhiều bàn viết, mỗi một bàn viết gánh một tác phẩm đang còn dỡ dang, kèm theo là mớ hồ sơ tài liệu nghiên cứu. Những bài viết của thầy thuộc nhiều đề tài song chung quy là  tinh thần tam giáo đồng nguyên. Tôn chỉ của thầy là đồng quy nhi thù đồ, nhất trí nhi bách lự; quy về chỗ giống nhau nhưng bằng nhiều đường khác nhau. Nhiều cách nghĩ khác nhau nhưng rốt cùng cũng nhất trí với nhau. Với tôn chỉ nầy thì không những chỉ có Nho Phật Lão đông quy mà sẽ có sự hòa đồng giũa triêt lý đông và tây, giữa khoa học và đạo học. Bởi vì “ở phương đông có thánh nhân ra đời thì tâm ấy đồng, ý ấy đồng; ở phương tây có thánh nhân ra đời thì tâm ấy đồng, ý ấy đồng". Nếu đạt được tôn chỉ nầy thì sẽ không có hận thù, không có chiến tranh, không còn khũng bố. Bấy giờ sẽ bốn biển một nhà, năm châu một chợ. Sự hòa đồng trên chỉ có thể thành tựu ở Việt nam. Vì hoàn cảnh địa lý và vị trí đắc địa của Việt Nam là giao điểm cho đồng quy, hòa đồng mọi tư tưởng dị biệt. Việt nam là ngã tư của những nền văn minh trên thế giới (carefour de civilization). Theo thầy thì hai chữ Giao Chỉ, Giao Châu là con đường gặp gỡ (Trung-Ấn Ấn, Á-Âu) chứ không phải là hai ngón chân cái giao nhau như nhiều người lầm tưởng. 
Hoài bảo cả một đời của thầy là xây dựng một nền quốc học cho VN, một nền văn hóa thuần túy VN mà tinh thần tam giáo đồng nguyên là cốt lõi của nền văn hóa đó. Quốc học được xem như một chương trình học bắt buộc giảng dạy ở các đại học. Quốc học được coi như là cái gốc vững chắc để đón nhận những nhánh văn hóa ngoại lai cấy ghép vào. Nếu cái gốc không vững chắc thì sự cấy ghép sẽ không tựu thành, thậm chí có nguy cơ lai căng mất gốc .
Giáo sư Heinrich Zimmer cho rằng nền giáo dục cũng như triết học Á Đông là ở nếp sống chứ không phải ở lý thuyết đầu môi. Điều quan trọng không phải là những gì thầy viết, điều quan trọng là những điều thầy thực sống với những gì đã viết. Điều quan trọng không phải là ngôn thuyết mà là thân giáo. Không phải dùng lời thuyết giáo suông mà lấy bản thân làm gương mẫu, dùng tâm mình để chuyển tánh (transformation). Trong con người của thầy có ba nguồn sinh lực: Khổng, Phật, Lão. Về Khổng giáo, thầy tổ chức gia đình thành một nếp sống nho phong, lễ giáo; hành xử giao tiếp ngoài xã hội với một phong thái điềm đạm, khiêm cung, tín nghĩa, tiết độ. Về Phật giáo ,thầy đã chọn đây là bến đỗ tâm linh; về Lão giáo, thầy sống theo nếp nhàn của Lão Trang ; nhàn nhã tự nhiên trong cái đa đoan bận rộn – lấy cái làm mà không làm, lấy cái không làm mà làm (dĩ vi nhi vô vi, dĩ vô vi nhi vô bất vi) .
Vừa giảng bài trên giảng đường, vừa đảm nhiệm chức khoa trưởng, vừa liên tục cho ra đời nhiều sách, vừa nhận làm patron cho sinh viên cao học v.v …nhưng lúc nào Thầy cũng ung dung tự tại. Chính nếp sống của thầy, tư cách phong thái của thầy đã cảm hóa được biết bao kẻ hậu học: dạy về đạo, viết về đạo, sống trong đạo, không màng danh lợi . Trong bốn mươi năm trong nghề thầy đã cho ra đời trên năm mươi tác phẩm văn học, đạo học, triết học. Học trò của thầy nhiều người đã thành danh .

Những giáo sư giảng viên đại học ngày nay sống thực dụng, vụ lợi hơn là vì lý tưởng giáo dục .Thay vì dành thời giờ nghiên cứu và giảng dạy, họ dạy hết trường này qua trường khác theo chế độ thỉnh giảng. Giáo sư thì lạm phát mà công trình nghiên cứu thì ít oi. Nền giáo dục của ta nghèo học giả chỉ giàu bằng giả. Đó là chưa kể tệ nạn nhận phong bì của sinh viên, nhận lời mời ăn nhậu của sinh viên có nhu cầu xin điểm. Sinh viên biến người thầy thành công cụ để tiến thủ một cách bất chính. Không chỉ ở bậc đại học mà ngay đến bậc mầm non mẫu giáo cũng lắm điều để bàn. Cô nuôi dạy trẻ yêu tiền hơn yêu trẻ; lại có cả bạo hành trẻ. Học sinh lớp một cũng bị cô giáo lùa về nhà để dạy thêm …Một nền giáo dục vụ lợi kiểu nầy thì mong gì tương lai của các thế hệ mai sau. Trong hiện tại, nghĩa ân sư, tình thầy trò bị xói mòn, mai một. Câu nói "dân tộc ta có truyền thống tôn sư trọng đạo" trở nên sáo mòn vô nghĩa. Thầy vô đạo thì trò còn gì để mà trọng, còn ai để mà tôn kính! Chẳng trách học trò ngày nay thất lễ với thầy. Nghề nào cũng phải có đạo của nghề đó. Cái đạo của nghề dạy học là lòng yêu thương học sinh. Không những yêu thương mà còn phải biết trân quý mầm non của đất nước. Nhà vi trùng học Yersin có một câu nói rất hay về đạo làm thầy: Ta đến với một đứa trẻ vì một lòng thương và một lòng kính. Thương vì hiện tại của em và kính vì tương lai của mà em có thể có.
Làm thầy mà không biết yêu thương học trò không biết nâng niu trân trọng tương lai của học trò, không mô phạm chuẩn mực thì đâu phải là thầy!
Sư bất tai sư tai sư tai ?!
Ngày xuân năm nào đi thăm thầy cũ đã gợi lại trong tôi nỗi niềm trắc ẩn trước thực trạng của giáo dục hiện nay. Biết bao người đã mong chờ và tự hỏi không biết trong lần cải cách tới có thay đổi được gì không. Riêng tôi, tôi may mắn có được một người thầy đúng nghĩa, chính danh.
Thầy tôi đã giảng về đạo, viết về đạo và thực sống trong đạo với những gì thầy nói Thầy viết trong suốt cuộc đời làm nghề dạy học!
 T
Cô là cái cốc uống rượu có góc vuông. Về sau cốc uống rượu không có góc vuông nữa vẫn được gọi là cô. Trong thuyết chính danh Khổng Tử than: Cốc không là cốc, cũng gọi cốc sao, cũng gọi cốc sao ?

Monday, May 19, 2025




   May Mà Ta Còn Có Em ..... và Sài gòn và Thủ Đức

Trần Hoài Thư

Bởi vì, em đã đến với ta khi ta không còn gì hết. Ta đã nói khi ta vào ngôi trường của chiến tranh có nghĩa là ta không còn là ta nữa. Cái tôi của mình đã bị tước đoạt từ thể xác đến tâm hồn. Người ta đang cố biến tập ta thành một người máy. Nhưng ta vẫn còn trái tim. Bởi vì trái tim mà ta đã có mặt. Trái tim bắt ta phải lên đường, phải chấp nhận cái định mệnh của thế hệ sinh và lớn lên trong chiến tranh. Trái tim nâng bước chân ta khi ta muốn quỵ, đỡ ta lên khi ta muốn ngã. Trái tim làm ta biết phẫn nộ, sôi sục như quả trái phá, cuồng nhiệt đam mê như hít hà da thịt yêu ma. Trái tim dạy ta phải yêu núi yêu sông, phải hy sinh bản thân, dù ta rất sợ khi phải nói về những mỹ từ tâm lý chiến. Trái tim khiến ta bò đến mục tiêu khi hai cùi chỏ ta trầy trụa. Trái tim mềm yếu vô cùng nhưng cũng mạnh mẽ vô cùng. Và cũng vì trái tim, ta mới yêu em. Mới thương em hơn bao giờ. Ta gặp em khi nào. Ta đâu có tài tán gái. Ta cũng chẳng phải đẹp trai. Ta gầy còm hom hem, mắt nặng độ, gió mạnh thổi muốn ngã. Ta đã được hoãn dịch vì lý do sức khoẻ mà. Thế mà em đã đến với ta, bằng tất cả tâm hồn. Cảm tạ em, cảm tạ Sài Gòn. Nhớ em, phải nhớ Sài Gòn. Phải nhớ chiếc áo dài trắng, và mái tóc cắt demi garçon mà em mang đến. Nhớ em, nhớ hơi hướm như còn vướng lại trăm năm. Nhớ em, đôi vai nào nhỏ bé mềm mại, hàm răng nào trắng như hạt lựu, đôi mắt nào lung linh dưới nắng, đôi môi nào như mềm ướt và thân thể nào nóng bỏng thịt da.

Nhớ em, em Sài Gòn, hôm nào, tên ta được gọi. Trời ơi, ai đó cà. Ai như từ tiền thân vì ta phải đọa. Ai lựa tên ta mà bốc nhằm. Ai đến với ta khi thiên hạ bỏ ta mà chạy mà xa. Ai thả chiếc cầu để ta được cơ duyên mà chụp. Cám ơn em. Cám ơn Tăng Nhơn Phú. Nhờ Tăng Nhơn Phú ta mới được gặp Sài Gòn. Cám ơn trong địa ngục ta vẫn còn thấy được thiên đàng. Trong lò luyện thép ta còn hứng được một cơn mưa ân sủng. Có phải em là Gia Long. để anh thèm mưa rất nhỏ. Có phải em là Trưng Vương để anh thèm hoa phượng nở… Không, ta chỉ tưởng tượng viễn vông để làm một bài thơ mà ta chưa bao giờ cảm nhận để cho đời đở buồn. Cái tưởng tượng như ông Tố Hữu (ông lành mà dạ chẳng lành) hay những ông nhà văn nhà thơ ngồi trong tháp ngà tưởng tượng để cả thế hệ con cháu các ông đều tưởng thật, xem là chân kinh, để rồi lao về phía trước như bầy thiêu thân.

Nhưng ta xin thề, ta rất thật thà với em, em của trái tim Sài Gòn, giọng nói Sài Gòn, mái tóc Sài Gòn, má lúm đồng tiền Sài Gòn, mềm mại mà nồng cháy, yếu đuối mà cuồng nộ đam mê… Bởi rõ ràng như hôm qua, em ngồi đấy, trên tấm vải nhựa ở khu thăm nuôi. Nắng Tăng Nhơn Phú đẹp não nùng bởi vì có nắng Sài Gòn em mang đến. Em gắp cho ta thức ăn như người vợ chiều chồng. Trời ơi, từ khi sinh ra đến giờ, ta có bao giờ được ai chiều chuộng như em. Số ta là số du thủ cô hồn, hoang đàng phóng đảng. Số ta lê la đầu đường xó chợ, số ngủ bờ ngủ bụi mà. Số ta, sinh ra đã nghe tiếng hí kinh hoàng của con ngựa chứng. Số ta, số luôn luôn bom đạn, thù hận, tai ách do từ những thằng già ngồi trong tháp ngà mơ tưởng đến thiên đường và bọn thực dân phát xít luôn luôn rình mò tìm cách xâm lược. Số ta, cha mẹ chia lìa, cha con một người một ngã, nhìn đâu cũng thấy máu, máu, và máu. Số ta, đêm trốn chui trốn nhủi dưới gầm bàn, xó nhà để tránh đạn, tránh bố ráp… Số ta, tiếng khóc đầu tiên không phải là khóc cho một kiếp người mà là tiếng khóc của một thế hệ sinh ra trong thời ta bà mạt kiếp. Số ta, cái số thế hệ chiến tranh, số rớt tú tài anh đi trung sĩ… Số ta, như vậy mà em còn thương ta, thì tâm em là tâm bồ tát rồi. Ta đã nói trăm lần, ta phải cảm tạ Tăng Nhơn Phú. Bởi vì nhờ Tăng Nhơn Phú mà ta được yêu Sài gòn và được yêu em. Nhờ có Tăng Nhơn Phú mà bỗng dưng Sài Gòn trở nên gần gũi, mà gặp em trong chuyến xe về muộn. 

Trăng đã lên trên khu Hàng Xanh.
Sài Gòn Gia định chia trăm ngã.
Có ngã nào em hiểu tình anh…

Nhờ có Tăng Nhơn Phú mà trước lạ sau quen con gái Sài Gòn qua thơ Nguyên Sa, qua văn Duyên Anh. Ôi Tăng Nhơn Phú, đồi gian khổ mồ hôi, may mà trên bầu trời vẫn còn có những vì tinh tú sáng để ta còn nhìn về phía Sài Gòn, mà mong mà nhớ. Nhờ có Tăng Nhơn Phú, mà ta mới đổ mồ hôi để còn có em đem cho ta cơn gió mát. Nhờ có Tăng Nhơn Phú mà em đã tìm đến ta, vào ngày cuối tuần, mang theo những món đồ thăm nuôi rải theo nước thánh. Ta ăn dù chua, cũng thành ngọt, dù cứng cũng thành mềm… Em hỏi ta có cực không, khiến lòng ta tở mở: Thấm tháp gì. Ta bị phạt 50 lần hít đất nhảy xổm vì tội để giày bẩn, nhưng ta phóng đại bị phạt cả trăm lần… Làm như Thủ Đức như một lò luyện thép… Rồi em cứ bắt ta kể chuyện quân trường. Em nói là mỗi lần em đọc Nhật Ký Quân trường của ta trên nguyệt san bộ binh là mỗi lần em khóc. Em thương các anh sinh viên sĩ quan Thủ Đức quá. Em càng làm ta kiêu hãnh. Như vậy mà ông đại đội trưởng lại cứ phạt ta dài dài. Như vậy mà đám sinh viên sĩ quan cứ nhìn ta nói bóng nói gió: Nguyệt san Bộ Binh không muốn mua cũng phải bị ép mua. Trời ơi, ta đâu có cái thẩm quyền mà nói hờn nói mát như vậy. Ta viết bài, chẳng những không có nhuận bút mà cũng bị trừ lương, 8 đồng một số. Trời ơi. Ta mang mồ hôi của ta của bạn bè để nhỏ lên trang giấy để các em gái hậu phương còn yêu tha thiết các người mà. Sao lại trách ta đồng lõa. Sao đại uý S. cứ ghen tức vì ta được miễn ngày thứ tư đi bãi để lên họp ở Khối Chiến Tranh Chính Trị hay về Hội quán nhìn em. Tim đại úy là tim đồng tim sắt, làm sao còn biết cái hay của bài thơ Luân Hoán, Nguyên Sa, Cao Thoại Châu, những người thơ cùng khoá của ta? Sao đại úy cứ đì ta đến tả tơi, tơi tả…chỉ vì ta có cái tội là viết báo bộ binh?

Còn em. Em Sài Gòn, thiếu gì chàng công tử mà em lại lặn lội chọn ta. Em nâng khăn, nâng bát, nâng chén, mời ta. Có phải em là lan của vườn hoa bách thảo… Thì vâng. Em là lan. Cành lan mong manh đã nở một đoá hoa vàng rực rở trong hồn ta bát ngát. Mấy mươi năm rồi, nhớ lại em, lòng ta bỗng dưng ấm áp lạ lùng. Nhớ đôi mắt ai lung linh, chẳng hiểu vì nắng Tăng Nhơn Phú đã tắm đầy đôi mắt ấy, hay vì khi yêu ai, ta cứ một mực tôn sùng. Nhớ em, làm sao quên được những lần ta chạm tay, vô tình hay cố ý. Con tim già nua của ta bây giờ cũng phải đập bấn loạn như hôm qua. Con người nhiều khi chỉ cần sống một giây, một giây mà thiên thu bất tận, mà hoan lạc cuồng si, mà mắt sẽ mở trừng, và lòng thì mãn nguyện để mà nhắm mắt như cái giây khắc mà con bướm đực động tình giao hoan trước khi rụng xuống mà chết.

Vâng, may mà có em, đời còn dễ thương. Thơ Vũ Hữu Định tuyệt vời như thế mà sao văn học sử không dành cho bạn ta một chỗ đứng. Nhưng cần gì, trong tim em, tim ta, tim những thằng trẻ tuổi của một thế hệ chiến tranh đã in khắc những câu thơ tuyệt vời ấy rồi. Bởi nó là nỗi lòng đích thật của một thế hệ bị mất mát quá nhiều, bị trù dập quá nhiều. Hỡi các ông soạn sách văn học sử, các ngài hàn lâm khoa bảng.. Các ngài chỉ bắt bọn trẻ học về Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, giòng thơ mới, những kẻ đang ở ngoài Bắc, trong khi những thần tượng của chúng tôi, mỗi ngày nặn óc nặn tim để sáng tạo ra những bài thơ phanh thây uống máu bọn trẻ chúng tôi trong Nam. Các ngài chỉ dựa sách vở để lý luận, tham khảo những tài liệu mốc xì, lỗi thời từ Socrate đến Jean Paul Sarte, các ngài làm sao biết những trang bản thảo được viết dưới hầm, trong bóng đêm dưới ánh đèn pin quân đội, trong bệnh xá, ngoài bãi, trên Trường Sơn, trong sình lầy. Các ngài đâu có hiểu cái dấu chấm dấu phết trở nên vô nghĩa khi hơi thở bị hụt hẩng, khi nỗi lo âu bị đè nặng…

Các ngài đâu có hiểu tại sao lại đốt hết cả văn chương thời chiến của chúng tôi. Bởi vì họ không dám cho những người thuộc hàng ngũ của họ thấy được sự thật của những kẻ mà họ nói rằng: Giết cả trẻ sơ sinh hay hãm hiếp ăn thịt người. Bởi vì họ không dám cho dân họ thấy rõ về một nền văn học nhân bản, mà chúng tôi đã chuyên chở trong những tác phẩm của chúng tôi. Bởi vì họ sợ sự dối trá của họ bị lột mặt. Đấy. Thế hệ chúng tôi là thế. Chiến tranh cướp mất tuổi trẻ đã đành, còn văn chương, văn học chuyên chở cả nỗi lòng của tuổi trẻ cũng bị cướp đoạt tiếp. Chưa kể những tai ương ghê gớm khác mà thế hệ chúng tôi phải gánh chịu sau ngày ngưng tiếng súng: tù tội, trả thù, và cái bản án vô hình ghê rợn: ngụy.

Đấy. Tuổi trẻ của chúng tôi là thế. Của những kẻ ưởn ngực vừa chạy vừa gào xung phong để cho các ngài làm văn hóa, dạy văn hóa, suốt ngày chỉ la lên: Yêu là chết ở trong lòng một tí… trong khi chúng tôi muốn yêu mà không được yêu, đã có yêu rồi nhưng lại ngăn cách chia lìa. Các ngài chỉ biết rung đùi thưởng ngoạn những giòng văn học ngoại lai, các ngài làm sao hiểu được cái tiếng gọi buốt xoáy trong trời đất Việt Nam: em hỏi anh bao giờ trở lại. Xin trả lời mai mốt anh về… Anh trở về với đôi nạng gỗ. Anh trở về bại tướng cụt chân… Các ngài chỉ rung đùi cùng những trang cổ thư quân tại tương giang đầu thiếp tại tương gian vĩ hay tự hãnh diện đầy bồ chữ Mỹ chữ Tây… trong khi không có một nơi nào như phần đất Việt Nam này, mà tuổi trẻ già cả trăm năm, mà mỗi cá nhân là một chứng nhân sống để phán xét về những chủ nghĩa lý thuyết mà các ngài tự hào là những kẻ thông thái. Các ngài không lấy vết sẹo ra để mà làm tài liệu, những giọt nước mắt ra làm chứng từ, mà chỉ lấy kinh nghiệm của những ông Tây ông Mỹ. Ông Tây ông Mỹ có thở như chúng tôi đã thở? Ông có sống như chúng tôi đã sống? Ông có thấy như chúng tôi đã thấy? Các ông có bao giờ đứng bằng cặp giò cụt? đã vác thập tự giá như chúng tôi đã vác? Có viết những trang bản thảo mà phải trùm mền, trùm poncho dưới ánh đèn pin quân đội? May mà có em đời còn đời còn dễ thương. Cám ơn nhà thơ. 

Bởi vì nếu không có em, chắc bước chân ta sẽ phải thất thểu trên những vĩa hè Sài Gòn để mà tủi thân. Bởi vì không có em làm sao ta hiểu được một Sài Gòn độ lượng bao dung, con gái từ tâm cho mà không cần đặt câu hỏi. Ôi Sài Gòn, ta tự hào hãnh diện có bộ ngực mềm mại, có bờ vai nhỏ bé, có con tim như vang những tiếng chuông chùa nhà thờ… Cần gì sắc đẹp nghiêng ngửa não nùng. Các em ấy đã có phần hết rồi. Bởi Sài Gòn nhiều tướng tá lãnh tụ, chính trị gia, nhà văn nhà thơ tài hoa, tài tử đóng phim đẹp trai, những chàng trai mặc đồ bay, súng rouleau hoa mai trắng… Còn ta chỉ là thằng đang chuẩn bị trở thành một trung đội trưởng bộ binh, chẳng biết nhảy đầm, hay biết lái xe để đưa em dạo phố. Ta chỉ có đôi chân. Đôi chân sẽ lội bộ, sẽ trèo đèo vượt suối, sẽ chạy sẽ ngập sình sẽ dẫm trên từng tấc đất đầy tai họa. Đôi chân sẽ dẫm trên từng tấc đất của quê hương, cho dù một ngày nào đó, sẽ bị què bị cưa bị cụt. Đôi chân chống lấy thân người nhưng cũng chống đỡ những hòn đá nặng của lịch sử.

Và con tim. Con tim đang thì thầm, em có nghe không đấy. Nó đang nói về một niềm hạnh phúc. Bởi vì tuy gia tài của một tên thanh niên không có gì hết, nhưng em có nghe tiếng còi tàu từ hướng sông Sài Gòn đang vọng về như chúc mừng chúng ta, và trên bầu trời, muôn vàn tinh tú, sáng lung linh, gần nhau, sát nhau, như anh và em. Như buổi chiều Sài Gòn trời đổ cơn giông, ôi cơn mưa ân sủng không ngờ một ngày chúng trở thành những cơn mưa vĩnh cửu:


Anh còn lại đây một chiếc poncho
Anh xin trải ra cho em ngồi đỡ.
Em thấy gì không, thiên nhiên cây cỏ .
Có cả bầu trời xanh biếc trên cao.
Có tiếng cúc cù của đôi chim cu.
Có loài bông rừng thơm tho trong gió.
Sài Gòn dù phố xanh phố đỏ.
Ở đây cũng yêu mến lạ thường .
Vẫn cõi đất trời vô lượng bao dung.
Vẫn bờ cỏ mềm hơn thềm nhung lụa .
Nắng hôn nhẹ trên những tàn cây nhỏ.
Lá cũng thì thầm bài hát yêu nhau.


Anh cũng thì thầm, một bông ngọc lan vừa mới nở trong hồn anh bát ngát
Hãy cho anh thử nhìn lên đôi mắt
Để biết rằng đời quá đẹp, dễ thương.
Sài Gòn buổi chiều trời chuyển cơn giông.
Cơn mưa vội, bay qua trời Thủ Đức.
Anh qua Nhà Ăn chui rào Thiết Giáp
Biết gì hơn, mang một chiếc poncho
Anh không có nhà, để em trú mưa.
Chỉ chiếc poncho trùm đầu hai đứa.
Chúng ta hôn nhau, dưới trời mưa thác.
Mưa Sài Gòn. Mưa xa lộ.
Mưa. Mưa …
Mưa loạn cuồng như hai kẻ sắp xa
Bấu chặt lấy giờ cuối cùng sắp mất

(Thơ Trần Hoài Thư)

Em có lạnh không, em cứ nép vào ngực anh, vào vai anh, và cứ nhắm mắt. Đừng nghĩ. Đừng bận tâm ngày mai. Em yêu dấu của anh./.

(Trích “Thủ Đức Gọi Ta Về“)

===============================================






Saturday, May 10, 2025



ANH BA CỦA TÔI
Louis Mishima * Germany
Trong hai người anh lớn, tôi chỉ biết anh ba tôi, vì anh hai tôi tử trận năm 1969, khi tôi mới được hai tuổi. Tất cả những gì tôi biết về anh hai chỉ là những mẩu chuyện mẹ tôi kể (không bao giờ hết!) và những tấm hình đã hoen ố của anh trong đồng phục lính, trong quân trường Đồng Đế và lúc anh ẵm tôi trước khi nhập ngũ lúc 20 tuổi.

Ngược lại, anh ba tôi là một người thật là đặc biệt đối với tôi vì anh không bao giờ la tôi mà lại bao che cho tôi khi bị 2 người chị lớn la thậm tệ khi lười học hay phá. Và đặc biệt hơn là lúc nào khi về phép anh lúc nào cũng chở tôi ra bến Bạch Đằng chỉ cho tôi coi những tàu chiến và kể cho tôi nghe trong đó có gì. Tôi chỉ nhớ là tôi nể và mê chiếc tàu 505 lắm. Sau đó anh dẫn tôi đi ăn kem, mua thật nhiều truyện hình Lucky Luke hay coi xi nê. Một lần anh còn mặc quân phục trắng hải quân (tôi cũng mê luôn!) hỏi tôi muốn lên một chiến hạm coi chơi không. Tôi nhớ còn nghi ngờ anh chọc tôi thì thấy anh đi lại nói gì với mấy người thủy thủ gác ở đó, rồi vẩy tay kêu tôi lại, dắt tôi lên tàu đi một vòng. Từ đó anh ba tôi là người hùng, thiên thần đối với tôi.

Nhưng với ba tôi anh là nổi lo lớn nhất vì (theo lời mẹ nói) tánh anh ngang tàng và bướng bỉnh. Mẹ tôi nói cũng vì vậy mà lúc nào cũng nằm lon trung uý, anh cải lại, tại anh không thèm lên lon! Lúc đó khoảng sáu hay bảy tuổi ngồi “hóng” chuyện tôi thấy anh ba tôi đúng, người hùng là phải ngang tàng, không thèm chứ không phải không muốn. Và anh là người duy nhất trong nhà đi chơi về khuya. Mẹ cằn nhằn anh đi khuya (tôi thường nghe vì còn được ngủ với mẹ) thì anh ưa vừa cười vừa nói “con vượt bao hải lý bây giờ con mới được lắc lư con tàu đi”. Sau này lớn anh mới kể là anh thường đi vũ trường mỗi lần về phép.

Ngược với ba, mẹ tôi thương anh nhất. Chị tôi nói chắc tại mẹ sợ mất anh một lần nữa như anh hai vì tính anh không những ngang bướng mà còn táo bạo nữa.

Rồi có một thời gian rất là lâu anh không về phép nữa, tối nào cũng thấy mẹ tôi lên phòng thờ, thắp nhang bàn Phật, nước mắt chảy dài. Tôi chỉ đi theo, đứng nhìn mà không dám hỏi tại sao. Lúc anh về lại anh không còn vui kể đủ thứ chuyện như trước nữa, tôi thấy mặt anh trầm và buồn mặc dầu anh vẫn chở tôi đi ra Sài Gòn ăn kem. Lúc đó tôi cũng không dám hỏi, chỉ thấy anh ít vui hơn. Sau này lớn tôi mới biết lúc đó anh đi đánh trận Hoàng Sa về. Và anh cũng chẳng bao giờ kể cho ai nghe nữa.

Mẹ tôi sau đó vẫn tối nào cũng thắp nhang bàn Phật. Có lần tôi hỏi sao anh ba “kỳ kỳ” vậy, mẹ tôi chỉ nói “tại bạn hắn chết nhiều”.

Ngày 30.4.75 anh ba tôi vẫn còn trong căn cứ và về nhà lúc giữa đêm. Mẹ tôi vừa mừng vừa khóc và từ đó mẹ tôi khóc tiếp vì anh cho đến khi anh vượt biên được năm 1979, sáu tháng sau khi ra tù.

Khi ra tù về lúc đó tôi thấy anh “kỳ” thiệt ngoài ra trên hàm răng cửa anh chỉ còn mấy cái và thấy méo mó khi anh cười và cái cười không như tôi nhớ nữa. Anh trở nên trầm lặng và dể cáu kỉnh. Anh cũng không chở tôi ra Sài Gòn chơi nữa, mà đúng ra lúc đó đâu còn gì nữa để vui và chơi. Từ từ tôi bắt đầu thấy sợ sợ anh và nhất là những lúc anh nói chuyện nhỏ với ba và mẹ tôi, mặt ba và anh tôi lúc đó đăm chiêu và nước mắt mẹ tôi cứ chảy hai hàng. Tôi lúc đó khoảng 12 tuổi chỉ hiểu là có chuyện gì qua trọng lắm hay sắp có thảm hoạ xảy ra, nhưng mà sao hoài vậy?! Sau này tôi mới biết là đó là bàn chuyện vượt biên của anh ba và anh năm.

Tối ngày nào đó anh ba dẫn anh năm đi, tôi thức dậy, chỉ nghe kịp anh ba nói với mẹ tôi “con đi nha mạ”, không ngủ lại được tôi chỉ thấy nước mắt mẹ tôi lại chảy hai hàng rồi lên thắp nhang. Hôm sau tôi chỉ được biết là hai anh tôi đi thăm cậu ở Đà Lạt. Khoảng một thời gian dài sau có người bưu điện tới phát điện tín và lần đầu tiên tôi thấy mẹ và cả ba tôi vừa khóc vừa cười (chưa bao giờ tôi thấy ba tôi khóc). Người cuối cùng được đọc điện tín là tôi, chỉ có một câu vỏn vẹn “con tới nhà cậu rồi”. Lúc đó tôi nghĩ trong đầu “có vậy và cũng rùm beng!”

Bây giờ với hai đứa con, tôi cũng chưa hiểu được từ đâu mẹ và ba tôi từ đâu có sức chịu đựng những mất mát như vậy.

Một năm sau tôi và anh kế vượt biên, gặp lại anh ba và anh năm ở Đức, anh ba tôi vui vẻ lại một phần nào khi trước 75, đi làm với anh năm đủ thứ việc để giúp hai đứa em nhỏ và tìm cách gởi đồ về cho gia đình mỗi tháng và anh ba giống như kim chỉ nam trong chuyện học hành và cư xử. Mặc dầu anh không giúp được gì nhiều trong chuyện học nhưng hướng đi và cách cư xử anh lúc nào cũng khuyên nhủ, nhắc nhở, không được thì… “quyền huynh thế phụ”! Và những cuối tuần được dắt đi chơi lại có lại, nhưng anh kể chuyện nhiều hơn, chuyện trong thời lính, chuyện lúc đi tù, những cách khủng bố tinh thần và thể xác trong tù, những cách làm cho bạn tù chỉ điểm và đấu tố nhau. Anh kể nhờ có đọc truyện “Tầng Đầu Địa Ngục” của Solzhenitsyn nên anh không bị mắc bẩy. Sau đó anh vào tiệm sách mua cho tôi cuốn truyện đó bằng tiếng Đức (Gulag).

Chỉ có một chuyện anh không bao giờ kể rõ và tìm cách cho qua khi tôi hỏi là lúc anh đánh trong trận Hoàng Sa. Đến bây giờ tôi vẫn chưa biết và sẽ không bao giờ biết vì anh ba đã mất cách đây vài năm.

Tôi nghĩ đó là vết tì rất lớn trong tâm hồn anh.

Xuất xứ FB Bảo Tồn Tiếng Việt * May 2, 2025.  Anh Ba Của Tôi


 

Friday, May 9, 2025

tạ ơn đời tạ ơn mẹ

 


Mẹ làm gai nở hoa, tranh 1910, Kay Nielson
Tạ ơn Đời, tạ ơn Mẹ
Tôn Thất Tuệ
2010
Theo kinh Niết Bàn, lấy tất cả vũ trụ vo thành trái cau còn dễ hơn nói cho hết việc sinh (và tử); sữa con bú vú mẹ nhiều hơn nước biển và nhiều ví dụ khác. Sự đầu thai đã có trong hiện tại khi con người mang những dấu tích di truyền của bố mẹ.

Trong sự sinh thành vô tận của vô số cảnh giới của thời gian vô thủy vô chung, có sự sinh thành trên quả đất của chúng ta trong đó người mẹ đóng vai trò quyết định. Dĩ nhiên tất cả đều phải có phối hợp âm dương. Trong thống kê, đàn bà sống lâu hơn đàn ông, kể cả trong các xã hội đàn bà đàn ông đều có quyền hút thuốc uống rượu và xả láng mọi thứ như nhau. Trẻ chết lúc sinh nhiều nhất là con trai.

Nhìn vào thế giới thú vật, con cái bảo vệ và nuôi dưỡng lứa mới sinh. Ngay trước khi sinh, chúng đã tìm nơi an toàn, theo khả năng nhận thức của chúng. Có những côn trùng lúc sinh nở có nhiều chất độc để tấn công kẻ phá hoại gia cang.

Trở lại thế giới người. Hoàn cảnh khó khăn nhất là lúc nguy khốn về tài chánh biểu lộ bản năng - hay ý thức tùy bạn - của người mẹ. Điều đó làm cho con cái thấy rõ sự hy sinh. Lại càng thấy rõ khi người cha vắng bóng vì bất cứ lý do gì.

Con ơi mẹ là Thượng Đế, cho con nguyên lý diệu vời; đó là ý chính của bài đạo ca, thơ của Phạm Thiên Thư. Nguyên lý diệu vời ấy là nguyên lý yêu thương, mẹ truyền cho con qua dây rún. Nhưng khi thực phẩm vật chất và tinh thần không còn đi qua dây rốn ấy, mẹ vẫn tiếp tục cho con tình thương và ý niệm ngoại vật. Hình tròn của vú mẹ, nét hình cung thân thể mẹ tạo cho con ý niệm ngoại vật qua xúc giác. Trẻ thơ thích hình tròn không thích hình vuông.


Và thực phẩm mẹ cho ăn, nếu không phải là một nguyên lý sống, là một nét vẽ trên cuộc đời không bao giờ phai. Một nhà dinh dưỡng Pháp nói: con người có thể quên tổ quốc, tôn giáo, ngôn ngữ ... quên tất cả trừ món ăn đầu tiên trong cuộc đời, do mẹ cho.

Tôi đã đi săn sóc một người già tê liệt nhưng ông ta rất thích thú khi bà vợ cho ăn McDonald. Bà vợ cho biết ông ăn hamburger từ khi mới biết bò. Một người già lúc nhỏ theo cha qua Nga; khi Nga sụp đổ ông trở về Chicago đã 70 chỉ mong ăn junk food. Montaigne, triết gia Pháp, lúc còn rất nhỏ về sống ở vùng quê nơi đó người ta bỏ tỏi vào sữa mà uống, từ đó suốt đời ông cứ dùng món nầy với cái mùi khó chịu trong xã hội quan cách Paris.

Tôi không phải là bác sĩ nhưng học ở Oshawa rằng nước miếng là một vị thuốc nên ăn gạo lức muối mè mà nhai thật nhuyễn đó là thần dược. Bây giờ nói đến cơm mem, e nhiều người ói mữa trong cái vệ sinh hiện đại. Nhưng nhai cơm rồi đút cho con là bài học của chim, nhai nhỏ côn trùng rồi mớm cho con. Cùng với sữa, nước miếng tạo nên những kháng thể tự nhiên trước khi có chủng ngừa.

Nếu ta quan niệm tính chất tự nhiên là điều quí hóa, mẹ là điều tự nhiên lớn nhất, bao trùm nhất. Mẹ cho cả chủng tử, mẹ nuôi chủng từ ấy bằng chính thân xác mình bằng bàn tay khổ cực của mình. Bàn tay mẹ vo gạo, sinh tố trong cám làm da mẹ mịn như công chúa tắm sữa, mà chất chua chất phèn trong đất trong bùn khi mẹ đi cấy hay trồng khoai đã làm da mẹ nứt nẻ, gót mẹ không hồng nữa như ngày xưa.
Trên đường du thuyết, Phật thấy một đống xương khô, bèn ra lệnh đệ tử đem chôn theo tập tục xương đàn ông riêng, đàn bà riêng. Môn đệ hỏi Ngài làm sao phân biệt; Ngài chỉ cho rằng xương đàn bà có vết đen là dấu tích cực nhọc cho con bú và nuôi dưỡng. Tuy là ẩn dụ, chuyện xương đen ngày nay được chứng minh đúng bởi y học. Văn chương VN có nhắc đến điển tích nầy.

Nhưng rồi người ta cũng không để mẹ yên như người ta không để yên thằng bờm có cái quạt mo. Người ta đã dùng cái gọi là duy vật biện chứng, để nói thế nầy thế kia. Thật ra người ta chỉ nói cho qua việc để thực hiện mục đích là hủy bỏ tất cả các giá trị luân lý, dân tộc, những quan niệm ăn sâu vào sự suy nghĩ như thằng bờm, nhưng phải nói cho nó nghe có vần có lối, cho có vẻ triết học.

Họ nói mẹ ta sinh ta là kết quả của một sự truy hoan, chung đụng thân xác. Có tin như vậy, có tin một cách ngây ngô như vậy, đứa trẻ mới chấp nhận sự sắp xếp của nhà nước mà đấu tố cha mẹ như Nguyễn Mạnh Tường đã viết. Câu chuyện không phải là chứng minh đúng sai mà vì một kết quả. Người ta cho phép nói đủ thứ, không kể trước sau, xuôi ngược miễn là đến kết luận Kiều là bông lài cắm bãi cứt trâu trong chiến dịch bài trừ những giá trị cũ.

Nhưng xem cái ngoành ngoạch ấy, ta thấy dẫu sao họ cũng bị lôi cuốn vào cái nhìn phân biệt; phân biệt ta và không ta, vật chất và tinh thần, bản năng và ý thức, thể xác và tâm hồn; thú vật và con người. Và cũng theo truyền thống tây phương lấy một khía cạnh nhỏ làm cơ sở cho một trường phái.
Phải chặt ngay cái đầu con rắn. Ảnh hưởng của mẹ có tính cách quyết định như nói trên qua thực phẩm, qua giáo huấn v.v...Do đó muốn thay thế tình yêu cho mẹ bằng tình yêu cho lãnh tụ, phải chặt ngay từ đầu, càng quyết liệt càng tốt; mẹ đây là mẹ thật hay mẹ chiến sĩ như bà Nguyễn thị Năm. Gorbachev đã được mẹ lén lút bồng đi rửa tội TCG Orthodox và nuôi dưỡng trong tình người; ông đã ra lệnh 700 ngàn lính Nga đồn trú ở Đông Đức án binh bất động để cho dân chúng đạp hàng rào biên giới qua Tây Đức. Tinh thần mẹ ông dạy nào khác tinh thần Á Đông, "mai sau chớ sống một mình".


Sinh hoạt sinh lý đã được nhìn qua các lăng kính quá khích một chiều, cũng dựa trên sự phân biệt, và các quan niệm xã hội từng thời. Nó lồng vào trong những định chế xã hội như thừa tự, mẫu hệ hay phụ hệ. Nhưng thiên nhiên đã dành cho phái nữ những bảo đảm để tiếp tục sinh sản. Chỉ cần một tinh trùng cho một thai noãn nhưng vô số tinh trùng khác nằm trong tình trạng ứng chiến nhưng không có địch để bắn. Trong một tổ ong, có vô số ong sắc to hơn ong thợ nằm trong những ứng viên chồng nữ hoàng ong. Người nuôi ong phải loại bỏ bằng cách để một cái lược chỉ vừa cho ong thợ vào, còn các con ong sắc phải chết bờ chết bụi thay vì ăn hết mật.

Có gì ngạc nhiên khi những chủ thuyết phi nhân chối bỏ, hủy diệt tính chất tự nhiên trong tình mẫu tử và quan hệ gia đình. Platon đã chủ trương bắt hết trẻ con về giáo dục, đào tạo trong mục tiêu như lính chiến bảo vệ chính quyền; nếu chuyện nầy xẩy ra, người ta sẽ dạy trẻ con đánh vào cục đá và vào đầu con chó như nhau.

Nhưng giới văn nghệ thì nhìn sự thương yêu và sự đau thương là một. Trong một truyện ngắn của William Saroyan, Mỹ gốc Armenia (1908-1981), một thanh niên trên một chuyến du lịch dài; giữa đường một kẻ đồng hành phái nữ chuyển bụng. Anh ta phải làm cô đỡ. Anh thấy tiếng khóc la của người mẹ chẳng khác nào tiếng rên la của người tình khi anh giao tiếp bằng thể xác.

Không có loài người trừu tượng mà chỉ có những thành tố hiện hữu. Không có mẹ trừu tượng. Chỉ có những bà mẹ gánh trái mít non, vài trái khế, vài trái thơm từ quê xa lên tỉnh thăm con trọ học. Những bà mẹ ru con suốt đêm vào thời chưa có thuốc ho. Những bà mẹ mua đầu chợ bán cuối chợ, trả tiền vay góp, lúc tối mua được lon gạo đem về. Những bà mẹ có thật, không có trong biện chứng. Chỉ có những bà mẹ chúng ta ngồi ở ngưỡng cửa trông chờ rỗ bánh ế, mẹ vui cho con cái bánh mà buồn hôm nay thua lỗ. Những bà mẹ có thật.
Xin cúi đầu tạ ơn Đời, cúi đầu tạ ơn Mẹ.-



Monday, May 5, 2025

đóng đinh trên thánh giá

 

Phật nhập diệt, tranh Nhật Bổn thế kỷ 14

Đóng đinh trên Thánh Giá 

[Tham luận ngắn tiếp theo next Older Post Giác ngộ và hành hình]

Bài nầy không có gì khó và là chương dễ hiểu nhất của một cuốn sách nói về huyền nhiệm của PG và Thiên Chúa Giáo nguyên thủy. Vì vậy ở đây tác giả nói thêm về sự khác biệt dựa vào một ý niệm hình học, chiều đứng và chiều ngang và cũng là biểu đồ hàm số với hai trục tung hoành. Hơn nữa Suzuki là một nhân vật quan trọng trong Thông Thiên Học nên không ngạc nhiên khi ông đề cập đến TCG.
Sự so sánh chiều đứng và chiều ngang chỉ là một phần trong ba phần của toàn bài. Tổng quát, bài giúp độc giả hiểu một phần lớn yếu lý của PG và có ý niệm về tôn giáo tính (religiosity). Tuy không đề cập những chi tiết người học PG thường gặp như ngũ uẩn, tứ diệu đế, v.v… chương nầy đã phân tích rất rõ ràng về ngã và cách Tây và Đông Phương nhìn nó.
Quan niệm “bất nhị” sẽ giúp chúng ta rất nhiều ở chỗ nầy. “Bất nhị” là một thuật ngữ tuy nghĩa đen chỉ là: không hai. ”Mình với ta tuy hai mà một; ta với mình tuy một hai” là cách hiểu bất nhị rất lý thú. Tâm thâm bất nhị, có nghĩa hai điều có liên hệ mật thiết như hai mặt của đồng xu hay bàn tay, chúng giúp nhau để hiện diện, trong thế động. Bất nhị nới rộng cho biết điện lực không thấy nhưng có qua hiệu ứng của ngọn đèn, bếp lò v.v…Suzuki viết: “Ngã tương đối là ngã siêu nhiên; ngã siêu nhiên là ngã tương đối; chúng không phải là một cũng không phải là hai. Chúng tách rời nhau trong phân tích triết lý, chứ không tách nhau trong thực trạng”.
Mà khó khăn là ở chỗ mình chỉ thấy ngã tương đối, như ngọn đèn chưa phải là điện mà chỉ là một cách thể hiện giới hạn (manifestation limitée); ông Phật hiền hòa mình thấy, ông tướng hung hăn mình thấy là những gợn sóng trên một hồ nước. Hồ nước và sóng không thể xa lìa.
Suzuki viết cho người Tây Phương nên ông nói “the transcendental ego” và “relative ego”, dịch là “ngã siêu nhiên” và “ngã tương đối”. Hai chữ nầy nghe lạ. Trong sách báo Việt không có. “Ngã tương đối” chính là cái ngã mắc dịch (the goddamned self / le fichu moi) mà sư lớn sư nhỏ đều săn đuổi như đuổi tà với tiếng thét hành quân (battle cry): vô ngã là hạnh phúc (?!). Ngã siêu nhiên, thiết nghĩ đó là chân ngã. Nhưng chân ngã ít khi hay không nghe nói vì đến giai đoạn cuối, kinh Niết Bàn mới nói thường (không vô thường), ngã (chân ngã, không vô ngã).
Suzuki khổ công như vậy để thấy ĐP chủ vào ngã siêu nhiên, TP chủ về hiện tượng và xem hiện tượng bất biến, chủ về ngã tương đối. Hình nhi thượng ấy ảnh hưởng đời sống thực tế, chứ không phải việc dóp dép cái lỗ miệng của triết nhân. Khác với Đông Phương với ý niệm vô hình tướng, TP chú trọng đến hữu hình (corporealty) ví như dùng rượu tượng trưng cho máu Chúa, bánh thánh cho thịt Chúa.

Bài nầy không khó và trình bày “tân thời” ghi lại những điều căn bản mà người tu học lắm khi vì nhu cầu sở tri kiến ít chú ý: “PG là một tôn giáo hòa bình, trong lành, bình an và quân bình. PG từ chối tính chất chiến đấu và tách biệt độc quyền; trái lại chấp nhận tinh thần khoáng đạt, bao dung toàn diện, xa lìa các kỳ thị trần gian”. Vì vậy, đấu tranh sắt máu, viết khẩu hiệu hăm dọa, đốt thư viện … không phải là PG. Những kẻ có sở tri kiến biết tối đa về PG; người trì hành tu tập, chiêm nghiệm sẽ biết cái tối thiểu của tôn giáo nầy: giải thoát và giác ngộ. Suzuki không có gì mới lạ, chỉ có công nhắc lai, khi nói:

“Trong giác ngộ, chỉ có tính chất siêu nhiên. Chính nhờ kinh nghiệm giác ngộ mà ai cũng đạt Phật tánh theo đường lối riêng hay chung. Không riêng chỉ một người có thật trong lịch sử, tức là Thích Ca. Với giác ngộ, tức khắc đất trần chuyển hóa thành tịnh độ, bạn không cần bay lên trời và không phải chờ sự chuyển hóa nầy xẩy ra trên thiên cung.”
Vì là một hội viên Thông Thiên Học, tác giả không ngần ngại tỏ ra một sự ngạc nhiên tế nhị, rất trí thức về ảnh hưởng của chiều đứng. Ông viết:
“Chiều thẳng đứng bao hàm hành động, chiến đấu, độc quyền. Vì có tính cách năng động, TCG đôi khi khuấy động, gây xáo trộn. Vì có tính chất chiến đấu và tách biệt, TCG có khuynh hướng áp đặt quyền lực thống trị đối với kẻ khác mặc dù tự nhận chủ trương dân chủ và tình huynh đệ toàn diện.”
Tính chất chinh phục và thách thức thiên nhiên được tìm thấy ở các gác chuông nhọn mà tiếng Pháp gọi là các mũi tên (flèche) phóng thẳng lên trời; đền đài và chùa Đông Phương có nóc nằm ngang, ăn nhập vào thiên nhiên; không những thế, chùa nhỏ như am. Những cột đá vượt lên không là nghệ thuật Ấn Độ bị ảnh hưởng của Hy Lạp, thời Asoka ghi những chiếu chỉ của nhà vua, cách thức sinh hoạt xã hội, và có kinh Phật, nhưng các stèle nầy không phải là PG.
Thầy dạy Pháp Văn của tôi nói rằng Đông Phương thụ động ù lỳ, là passif, négatif trong lúc Tây phương năng động tích cực, actif, positif. Nhưng khi vào lớp triết thì Nguyễn Đăng Thục bảo ĐP mới động. Thằng nhỏ ngớ ngẩn mới biết thầy Pháp văn hướng về chính trị lịch sử 500 năm qua, ông tu xuất; trong lúc ấy thầy triết thì nói về tư tưởng. NĐT cho rằng tư tưởng tây phương là nền triết học ý niệm tĩnh, bất di bất dịch như Descartes nói: je pense donc je suis, tôi hiện hữu đời đời; trong lúc ấy, ĐP xem thế sự đời người là một sinh thành (un devenir / a becoming). Cái nhìn bất nhị của Suzuki thì đã “động” lắm rồi. Vô thường cũng động chứ gì. Thật vậy có vô thường mới đi lên, mới giác ngộ, vô thường giúp ta đi từ nhất xiểng đề đến bên kia bờ, nếu không vô thường thì không thay đổi tâm thái.

Suzuki mượn tạm hình học và biểu đồ hàm số, tung hoành. Với trực giác, đường thẳng trên mức hoàn vũ là một đường cong, mãi nơi kia hai đường trong thế chuyển hóa ba chiều sẽ gặp nhau. Nhờ tính động ĐP nói trên, Suzuki đã không để chiều ngang thành thụ động passif như thầy Pháp văn của tôi nói, hay chiều đứng sẽ gảy đổ. Và ông không thấy bất cứ xung đột nào giữa chiều ngang và chiều đứng, giữa nhập diệt nằm ngang và đóng đinh chiều đứng. Nhưng ông mong mỏi có những hình thức hội nhập linh thiêng nhân bản hơn, ít bạo động hơn. Ông không làm hòa đồng kiểu thánh giá và chữ vạn treo hai bên cổng vào doanh trại sư đoàn hay trung đoàn.

------------------------------------------
Ghi thêm: không rõ Suzuuki đã dùng danh từ nào trong Hán Nhật để chỉ transcendental ego. Nếu là chân ngã thì không nên dịch là ngã siêu nhiên mà nên dùng chân ngã để không có thêm một danh từ mới gây lộn xộn phức tạp. 




giác ngộ và hành hình thập tự giá

Christ Jaune, tranh Gauguin

giác ngộ và hành hình 
crucifixion and enlightenment
Daisetz Teitaro Suzuki (ttt dịch)

1.- Mỗi khi thấy hình Chúa bị đóng đinh trên Thánh Giá, tôi luôn nghĩ đến sự khác biệt sâu rộng giữa Phật Giáo (PG) và Thiên Chúa Giáo (TCG). Sự khác biệt nầy cũng là một biểu tượng tâm lý tách Đông Phương (ĐP) khỏi Tây Phương (TP).
Ngã hiện diện vững mạnh ở TP. Trong lúc ấy, ở ĐP không có ngã; mà không có ngã thì không có gì để đóng đinh.

Có thể phân biệt hai giai đoạn trong quan niệm về ngã. Ngã ở giai đoạn một: tương đối, thuộc tâm lý và kinh nghiệm. Kế tiếp ngã có tính chất siêu nhiên.
Ngã theo kinh nghiệm bị giới hạn, không có sự hiện hữu tự thân. Dù nhìn theo phía nào, nó không có giá trị tuyệt đối vì lệ thuộc các yếu tố khác. Nói khác, chỉ là một ngã tương đối, thành hình vì những sinh hoạt tâm lý, có tính cách giả định, luôn lệ thuộc. Do đó nó không có tự do. Từ đâu mà có ảo giác (sai lạc) rằng nó tự do, độc lập và hữu thực?

Sai lạc đến từ sự thể ngã siêu nhiên bị hiểu lầm khi nó điều hoạt xuyên qua ngã tương đối; và hiểu lầm hai thứ là một.
Ngã tương đối, theo quan niệm nhị nguyên của Mật Tông Tây Tạng, có hai cục diện trong các mối liên hệ, bên trong và bên ngoài. Bên ngoài mà nói, ngã theo kinh nghiệm hay tương đối chỉ là một trong nhiều thứ ngã, nó nằm trong cảnh giới đa dạng, không ngừng qua lại, tiếp xúc với các ngã khác, có tính cách diễn tiến. Nhưng ở trong mà nói (hướng nội), sự liên hệ (của nó với ngã siêu nhiên) liền lạc không thay đổi, toàn diện và hiện tiền. Sự liên lạc bên trong không thể nhận biết dễ dàng như bên ngoài, nhưng không có nghĩa là sự nhận biết không ích lợi gì trong đời sống hằng ngày.
Trái lại, sự tìm gặp ngã siêu nhiên đằng sau ngã tương đối sẽ chiếu rọi vào nguồn vô thức và giúp chúng ta tiếp xúc với vô thức. Rõ ràng, sự nhận chân bên trong không phải là một tri thức bình thường như đối với một sự việc bên ngoài.

Sự khác biệt nầy xẩy ra trong hai đường lối. Đối tượng tri thức thường tình nằm trong không gian và thời gian và có thể đo lường theo khoa học. Đối tượng của tri thức nội tại không phải là sự vật cá biệt. Ngã siêu nhiên không thể tách rời ngã tương đối mà xem xét. Nó được tiếp xúc một cách nhất quán và trực khởi bởi cái ngã tương đối, nếu tách khỏi ngã tương đối thì nó không còn là nó nữa. Ngã tương đối là ngã siêu nhiên; ngã siêu nhiên là ngã tương đối; chúng không phải là một cũng không phải là hai. Chúng tách rời nhau trong phân tích triết lý, chứ không tách nhau trong thực trạng. Không có một kẻ đứng nhìn và một kẻ bị nhìn; người nhìn cũng là người bị nhìn; người bị nhìn cũng là người nhìn.
Khi mối quan hệ giữa ngã tương đối và ngã siêu nhiên không được nhận biết thấu đáo qua trực giác, sự sai lạc, ảo giác xuất hiện. Lúc ấy ngã tương đối tự nhận có tự do, tự sung mãn và hành động theo tư thế nầy. Ngã tương đối không có sự hiện hữu đầy đủ của ngã siêu nhiên. Sai lạc chính là lúc ngã tương đối không thấy bản chất của chính mình và tiếm quyền cái ngã sau lưng mình.

Nhưng cũng rõ ràng như vầy: ngã siêu nhiên cần có ngã tương đối để có một hình thái mà điều hoạt, nhưng không thể đồng hóa với ngã tương đối; sự biến dạng của ngã tương đối không bao hàm sự biến dạng của ngã siêu nhiên.
Ngã siêu nhiên là một tác nhân sáng tạo, ngã tương đối được thụ tạo. Ngã tương đối không phải là một thứ gì có trước và đứng trước mặt ngã siêu nhiên. Ngã siêu nhiên là mẹ của mọi điều.

Tinh thần ĐP qui kết mọi thứ vào ngã siêu nhiên, tuy không luôn theo phương cách ý thức hay phê bình; trong lúc TP tự gắn mình vào ngã tương đối và bắt đầu mọi việc từ đó.
Thay vì đưa ngã tương đối vào quỹ đạo của ngã siêu nhiên (điểm xuất phát), tinh thần TP khư khư níu kéo vào đó. Ngã tương đối, tại bản chất là thiếu sót, đã đưa đến những sai lạc một khi TP tin nó như một thực tại hằng cửu và đóng đinh nó như một thực tại bất biến.

ĐP không hướng về hình tướng (corporeality) của ngã tương đối; nó hiền hòa, êm ả nhập vào lòng của ngã siêu nhiên. Điều nầy cho thấy tại sao Phật nhập Niết Bàn một cách trong lành giữa hai cây sa la; trong sự thương mến không những của đệ tử mà cả muôn loại, người, không phải người, chúng sanh hay không phải chúng sanh. Ngay từ đầu không có ngã chấp (ego substance), cho nên không cần có việc đóng đinh.

Trong TCG, việc đóng đinh trở thành cần thiết; hình tướng (corporeality) đòi hỏi một cái chết bạo động. Và ngay sau cái chết, việc phục sinh phải xẩy ra dưới hình thức nầy hay hình thức nọ, vì hai việc dính liền nhau. Saint Paul nói: Nếu Christ không sống lại, thì việc giảng đạo vô nghĩa, đức tin của chúng ta cũng vô nghĩa, để rồi chúng ta chìm luôn trong tội trọng”.
Việc đóng đinh có hai ý nghĩa: cá thể và nhân bản. Trong ý nghĩa thứ nhất, nó nói lên sự hủy diệt của một ngã cá thể. Trong ý nghĩa thứ hai, nó nói lên chủ thuyết cho rằng Jesus chết thế cho tội lỗi của chúng ta. Trong cả hai khía cạnh ấy “Người Chết” phải sống lại. Không có sự sống lại nầy thì sự hủy diệt cũng chẳng có nghĩa lý gì. Ý nghĩa đôi vừa nêu có thể diễn tả như sau: Nơi Adam, chúng ta chết, nơi Jesus chúng ta sống.

Trong PG, điều cần có là giác ngộ, chứ không phải phục sinh hay đóng đinh. Việc sống lại rất bi đát và mang đầy đủ tính chất người, nhưng nó vẫn còn chút mùi xác thịt. Trong giác ngộ, chỉ có tính chất siêu nhiên.
Chính nhờ kinh nghiệm giác ngộ mà ai cũng đạt Phật tánh theo đường lối riêng hay chung. Không riêng chỉ một người có thật trong lịch sử, tức là Thích Ca.
Việc đóng đinh không có ý nghĩa nếu không được theo ngay sau bởi sự sống lại. Nhưng đất trần, bụi trần vẫn còn dính tuy người sống lại đã lên trời. Với giác ngộ thì khác: tức khắc đất trần chuyển hóa thành tịnh độ, bạn không cần bay lên trời và không phải chờ sự chuyển hóa nầy xẩy ra trên thiên cung.

2.- Các biểu tượng TCG đều liện hệ đến sự khổ đau của con người. Cao điểm của mọi khổ đau là việc đóng đinh trên thập tự giá. PG nói rất nhiều về khổ đau nhưng cao điểm là ông Phật ngồi ở gốc cây bồ đề. Christ đem theo sự khổ đau cho đến giờ chót của kiếp hiện hình trên trái đất. Phật đến phút chót vẫn thuyết giảng về giác ngộ và im lặng qua đời giữa hai cây sa la. Hai cây nầy thẳng đứng, trong lúc Phật nằm theo chiều ngang như chính sự vĩnh cửu.

Christ bị treo trên thập tự giá thẳng đứng, đầy sầu não. Theo tinh thần ĐP cảnh tượng nầy quá bi thương và xốn xang.

Nay dùng hình học để so sánh hình ảnh một người ngồi xếp bằng thiền định và một người bị đóng đinh. Trước tiên, chiều đứng thẳng gợi lên ý niệm hành động, di chuyển và khát vọng. Chiều nằm ngang gợi lên ý niệm hòa bình, sung mãn nội tâm và an lạc. Hình ảnh ngồi cho thấy sự vững chắc, tin tưởng và bất động. Cơ thể trụ trên hai bắp vế của đôi chân xếp chéo; trọng tâm nằm ngay dưới trụ xương sống. Đó là tư thế an toàn nhất của giống hai chân khi còn sống. Đó cũng là biểu tượng của hòa bình, tĩnh túc và tự tin.

Tư thế đứng thường gợi lên tinh thần chiến đấu, công và thủ. Nó cho ta cảm tưởng về sự quan trọng cá nhân phát sinh từ cá thể và uy lực. Khi con người bắt đầu đứng trên hai chân, sự thể nầy chứng minh rằng con người nay khác biệt với loài đi bốn chân; và từ nay ít lệ thuộc với mặt đất, nhờ vào hai chân trước được tự do và nhờ vào sự tăng trưởng của bộ óc.
Sự tăng trưởng nầy và sự độc lập vừa nêu luôn luôn đưa con người đến chỗ sai lạc rằng từ nay mình làm chủ thiên nhiên và điều khiển thiên nhiên một cách đầy đủ nhất. Cộng chung với truyền thống Bible cho rằng con người thống trị mọi vật, sự thể nầy đã làm cho quan niệm thống trị toàn diện nẩy nở quá mức, qua khỏi những giới hạn hữu lý.
Hậu quả là chúng ta nói quá nhiều về sự chinh phục thiên nhiên, mà không nói đến sự cần thiết chinh phục bản chất con người; trong lúc thứ thiên nhiên nầy cần được chinh phục (điều hợp, thuần hóa) hơn bất cứ điều gì khác.

Mặt khác, thế ngồi thiền định giúp người ngồi thấy mình không tách rời mặt đất nhưng đồng thời không bị trói buộc vào mặt đất như phải lội xuống bùn làm trâu đầm. Thật vậy, hắn ta được nâng đỡ bởi mặt đất nhưng ngồi trên đất như một dấu hiệu tinh anh của tính chất siêu nhiên. Hắn ta không bị xiềng vào đất và cũng không tách khỏi đất.

Ngày nay chúng ta ồn ào nói rất nhiều về sự buông bỏ, làm như sự kết hợp, nhập cuộc là điều đáng ghét, gây chết chóc; cho nên phải làm điều trái ngược. Mà thật ra, người ta chỉ nói mà không dám động đến những điều đáng quí, hữu ích cho hạnh lạc xã hội và cá nhân. Hàn Sơn và Thập Đắc hưởng thụ tự do và hạnh lạc theo lối riêng mà người ngoài tưởng hai thi nhân thời triều đại Đường bên Tàu nầy đã buông thả. Thích Ca suốt 80 năm đi khắp nơi thuyết giảng lý giải thoát giác ngộ cho mọi tầng lớp khác nhau về trí tuệ, kinh tế, xã hội, rồi lặng lẽ qua đời bên bờ sông Niranjana. Socrates sinh và chết ở Athens đã dùng nghị lực và trí huệ khai mở tư tưởng cho người đời, đã đem triết lý từ trời cao xuống đất, bình thản uống chén thuốc độc, chấm dứt đời ở tuổi bảy mươi trước sự chứng kiến của các môn đệ.
Chúng ta sẽ nói gì về những cuộc đời của những vị tận dụng, tận hưởng sự thâm sâu của nội tâm? Buông bỏ hay giấn thân?  Những chữ nầy đều không đúng để lượng giá cuộc đời chư vị nầy. Họ hoàn toàn tự do, không bị cản trở bởi bất cứ tư lợi nào. Noi gương chư vị ấy, giác ngộ sẽ cho chúng ta tự do và an lạc, bình yên.


3. Khi Phật đạt giác ngộ tối thượng, Ngài vẫn ở trong tư thế ngồi; không bị xiềng vào mặt đất, cũng không tách khỏi mặt đất; Ngài với đất là một, từ đất mà lớn lên và không bị đất nghiền nát. Như tất cả trẻ thơ của mọi thường dân, Ngài đứng một tay chỉ trời một tay chỉ đất nói: trên trời dưới đất, chỉ có người mới đáng quý.
PG có ba biểu tượng về 1. Sinh, 2. Giác Ngộ, 3. (nhập) Niết Bàn. Đó là đứng, ngồi và nằm. Như vậy PG liên hệ mật thiết với sự sống đời người qua các hình thức hòa bình, không có dấu tích nào của hành vi chiến tranh.

TCG đưa ra nhiều điều khó hiểu, nhất là biểu tượng đóng đinh trên thánh giá. Theo người TCG, sự đóng đinh có nghĩa là đóng đinh ngã hay xác thịt vì không điều khiển được ngã thì chúng ta không thể đạt sự toàn thiện luân lý.
Đây là chỗ khác biệt giữa PG và TCG.

PG ngay từ đầu đã nói rằng không có ngã nào để đóng đinh. Tin có ngã là khởi điểm của mọi sai lạc nguy hại. Thế giới là một mạng lưới của những tương hệ về nghiệp, không có một ai, một tác nhân nào đứng đẳng sau xử dụng lưới theo ý muốn riêng.
TCG có khuynh hướng nhấn mạnh tính chất hữu hình (corporealty), từ đó có biểu tượng đóng đinh, và có hệ luận là biểu tượng ăn thịt và uống máu, được xem như phương pháp kết hợp thành một với Christ. Nhưng người không TCG hỏi có chăng một phương khác để hội nhập với Christ, hòa bình hơn, duy lý hơn, nhân bản hơn, ít bạo động hơn.
Christ bi ám hại trên cây thánh giá dựng đứng; Phật qua đời nằm theo chiều ngang; hai hình ảnh ấy – phải chăng? – có thể mượm tạm mà nói lên sự khác biệt giữa PG và TCG?

Chiều thẳng đứng bao hàm hành động, chiến đấu, độc quyền (tách biệt); chiều nằm ngang bao hàm hòa bình, bao dung, khoáng đạt. Vì có tính cách năng động, TCG đôi khi khuấy động, gây xáo trộn. Vì có tính chất chiến đấu và tách biết, TCG có khuynh hướng áp đặt quyền lực thống trị đối với kẻ khác mặc dù tự nhận chủ trương dân chủ và tình huynh đệ toàn diện.
Riêng ở khía cạnh nầy, PG đứng về phía bên kia, đối diện với TCG.

Chiều ngang theo thân Phật lìa đời lắm lúc cho thấy sự lười biếng, lãnh đạm, sự bất hoạt, tuy PG là tôn giáo vô cùng kiên nhẫn. Nhưng dẫu sao, PG là một tôn giáo hòa bình, trong lành, bình an và quân bình. PG từ chối tính chất chiến đấu và tách biệt độc quyền; trái lại chấp nhận tinh thần khoáng đạt, bao dung toàn diện, xa lìa các kỳ thị trần gian.

Đứng thẳng có nghĩa là sẵn sàng chiến đấu, phải túc trực vì kẻ thù có thể đánh phủ đầu mình bất cứ lúc nào. Nhưng một khi mình thấy kẻ thù nguy hại ấy chỉ là một ảo giác, một ngã tương đối, thì mình làm lành với chính mình và mọi điều, mọi sự để ngủ ngon.

Những khác biệt phân tích theo chiều đứng, chiều ngang không đưa đến bất cứ xung đột nào, nếu được nhìn theo chiều hướng tích cực. Tính chất nằm ngang nếu vẫn giữ vĩnh viễn nằm ngang sẽ đưa đến cái chết. Khi tính chất đứng thẳng mãi mãi là đứng thẳng cứng đờ thì nó sẽ ngã quỵ. Theo đúng với chân lý, sự nằm ngang chỉ có nghĩa là nằm ngang khi nó mang theo khuynh hướng trổi dậy như một đường thẳng chuyển qua thế ba chiều. Với chiều đứng cũng thế; khi vẫn giữ nguyên trạng bất động thì nó không còn là nó nữa, cho nên cần uyển chuyển, dung hòa quân bình với sự sinh động.
(xin xem tiếp tham luận ở next Newer Post Đóng đinh trên thánh giá



Mysticism, Christian and Buddhist
by Daisetz Teitaro Suzuki 1957