add this

Tuesday, September 9, 2014

nụ cười

cây khoai mì (củ sắn)


nụ cười
tôn thất tuệ

Hai đứa bé phá lên cười. Đã hơn năm phút chúng kéo nhau đến gần bố. Một đứa nói: "Kìa ba điên kìa; múa may trong đám cỏ". Giật mình, hắn cúi xuống cầm cây cuốc lên rồi nói như nói với mình: "Buồn nhỉ, đáng lẽ các con đã biết rồi chứ". Chúng ngơ ngát chẳng biết gì. Tin, đứa lớn cầm ấm nước chè đưa bố, còn Bi cầm cái ly cho hắn rót nước vào. Người cha vào lứa tuổi nửa đời uống nước một cách trầm ngâm, lấy tay xoa đầu đứa nhỏ nhất.
Hắn thường đánh nhịp hát những khúc cổ điển cho mấy đứa con nghe, những nhạc đề chính mà thôi. Chúng ngạc nhiên khi thấy bố múa tay khi làm việc, mồ hôi nhễ nhoại trên thân mình đen bóng với cái quần đùi xơ xác. Dạo ấy vào lúc nắng ráo nhất. Cỏ cây xơ xác. Vườn rộng làm cỏ không kịp, nhất là loại cỏ quái tặc cao hơn đầu người, sẵn sàng cháy bất cứ lúc nào.
Những đợt gió nối tiếp nhau trên ngọn đồi vào buổi xế chiều trên mảnh đất thoai thoải sườn đồi. Lau lách uốn mình theo chiều gió. Chợt đến trong tâm hồn của hắn một cái gì của gió, thứ gió thật đeo đuổi trái đất như một định mệnh. Chiều nay sao gió lại xoáy mạnh đến thế, thật mãnh liệt. Bàng hoàng và để giải tỏa căng thẳng tâm hồn, hắn tìm một khúc nhạc để hát lên, hát trong im lặng, hát trong hai tay. Gió thật nhiều; gió đè nặng lên cỏ lau.
Hắn buông thả cái cuốc như người lính trẻ buông thả cây súng trường. Hắn làm lành với đám cỏ trước mắt mà hắn quyết hạ cho được vì mùa mưa sắp đến, dọn sẵn đất trồng thêm ít khoai ít mì nuôi sống đàn con. Hắn rất thương cảm đám lau lách trước mắt trong cơn áp đảo của gió. Ước gì ngàn thân cỏ biến thành ngàn cây sáo cho khúc nhạc đồng quê bên bờ ruộng. Thật ra chính hắn cũng bị gió áp đảo. Trong trận chiến nầy trên sườn đồi sau nhà hắn, cả hai bên đều bị gió áp đảo. Hắn buông thả cây cuốc và làm lành với cỏ lau.
Hắn hát lên trong im lặng, hát bằng hai tay. Nét nhạc trong tim uốn theo chiều của cỏ tranh lau lách dật dờ. Đại sư đã đến cứu vớt hắn trong giây phút tâm cảm nầy. Hắn hát lên, hát trong hai tay.
Uống xong hớp nước, hắn nhìn hai đứa con trai cũng mình trần và chân đất như hắn, chỉ khác ít mồ hôi nhưng để lộ bộ xương sườn. Nếu không tự kiềm hãm hắn đã bật khóc.
- Chị đâu? hắn hỏi
- Chị trong bếp, đứa lớn chín tuổi trả lời. Chị đang nấu nước. Vào nghỉ đi ba. Em Bi vừa chạy bên bác Tư xin cho ba mấy bi thuốc lào.
Bé út thật có tình. Từ sáng đến giờ hắn không có chút thuốc, mà tiền đâu. Bi tự ý chạy mãi đàng xa trên con đường đất mịn xin cho hắn chút thuốc lào. Nơi đây người ta không có gì để cho nhau. Cỏ cây đã khô héo. Bông cỏ bay đi khắp nơi, đọng xuống bên lề đường như lớp sương xốp, lớp tuyết hoa, nằm chờ mưa để nẩy mầm tiếp sinh. Những túp lều tranh khô dòn nứt nẻ cũng héo hon như cây cỏ. Sống ở đây như những đạo sĩ lìa đời đi tìm thuốc trường sinh.
Theo lời con, hắn trở vào nhà. Ngồi trên chõng tre, tay vân vê viên thuốc lào, hắn nhìn đứa gái lớn nhất mười hai tuổi đang chụm lửa, cong mình thắp cho hắn cái đóm tre.
- Ba ạ, con muốn ba làm nhạc trưởng. Cô bé nói và được hai em đồng tình.
Trẻ con thật tội nghiệp, thật ngây ngô. Hắn trầm ngâm suy nghĩ: trẻ con biểu tượng cho thiện tâm của con người. Tay hắn cứng ngắc, lòng bàn tay như lớp da đế giày, mỗi lần cầm cây bút chì thì giống như cầm cây kim. Quanh năm suốt tháng, đầu óc luôn nghĩ đến thời tiết, nắng mưa hai mùa. Nắng thì đây không tìm ra màu xanh, mà mưa thì cỏ tận đầu giường, cỏ chỉa vào vách lá chòng ghẹo. Mưa dữ dội kéo đi hết chất màu còn lại sỏi đá, nắng lên bốc cháy cả đám rẩy, héo hon tận cây xương rồng.
Con chó vàng gầy ốm chạy nhanh vào nhà, nét sung sướng ngoắt đuôi mừng rỡ. Vợ hắn đi chân đất từ ngoài vào, tay cầm chiếc nón lá rách tơi, mặc chiếc áo trận hoa dù hoen ố, vá chằng chịt nhiều lớp. Hắn có cảm nghĩ như bà ta vá thêm cho dày, vì chiếc áo thô dùng ngoài chiến trận không đủ sức chống lại các tia nắng chỉa vào vai gầy của cô học trò năm xưa.
Nếu xưa kia một ai đó đã nẩy sinh ý nghĩ vẽ rằn ri trên loại vải ấy để dễ hòa đồng với thiên nhiên hầu tránh con mắt của địch, thì nay cái áo nầy lại lạc lõng nổi bật ra. Nếu nó không bị lộ ra trong khung cảnh rừng núi nầy, thì nó cũng lộ ra đầy đủ trong thời gian. Cái áo ấy lưu dấu một khoản đời đã qua, một cuộc chiến tàn lụi than tàn chưa lạnh hẵn.
Người ta đi mua những thứ áo ấy trên vĩa hè, trong chợ trời vì nó đủ dày, đủ bền cho công việc nhọc nhằn. Vợ hắn cũng làm như vậy, mua cho hắn cả năm rồi nhưng không mặc nên cứ trần trụi suốt ngày, nghĩ rằng thịt da hắn còn bền hơn chiếc áo dù kia; cứ để dành vợ cái áo đàn ông, cái áo phản lại ý hướng ngụy trang của tác giả, đặt trong thời gian.
- Sao bà về sớm thế?
- Còn ông thì sao? làm biếng quá.
Vợ chồng đối đáp vui vẻ. Cô bé đầu lòng xen vào:
- Bi đi xin thuốc lào. Tin kéo ba vào hút, còn con thì nói ba làm nhạc trưởng hay hơn cuốc đất.
- Mẹ biết. Hồi nãy Bi qua nhà bác Tư, ghé lại bên chị Năm khoe với mẹ vừa xin cho ba mấy bi thuốc lào. Nó xin mẹ một trăm đi mua mà mẹ không có; mà cho em đi xa ra tận đường cái tội nghiệp, mẹ không yên lòng. Thằng bé giỏi quá.
Vợ hắn qua nhà chị Năm đánh tranh giúp vầng công, để mùa mưa chị Năm qua làm cỏ. Đã chiều nhưng nắng vẫn còn nhiều, mùa nầy ngày dài đêm ngắn nên ai cũng thấy còn sớm. Ở đây đồng hồ là mặt trời, là gà gáy. Bây giờ mặt trời chưa đi ngủ và gà còn đi ăn thì người chưa được nghỉ.
Ở đây con gà là ông thầy luân lý của vợ chồng hắn và có thể chung cho mọi người trong khu vực xa xôi nầy. Gà không bao giờ ngừng bươi, ngừng xới tìm từng con trùng nhỏ, những hạt gạo mốc thối. Vợ chồng hắn cũng phải bươi, cào xới trên mảnh đất khô cằn để sống để nuôi con. Nào có khác gì gà: dưới những thân cây mì suông đuột rụng hết lá, chỉ còn những củ mì sượng. Đào lên thì phải dùng cúp, dùng xà beng; mùa khô đất cứng như đá. Mà đào lên, chỉ có những viên đá ong đỏ. Mấy năm rồi, mưa đã xoi cuốn mãnh vườn, lưu chủ những gì cứng nhất.
Hơn chục căn nhà trong ấp âm thầm đi theo bài học của loài cầm. Những mái lá xơ xác xa nhau chen trong cỏ rậm như những con ốc vào mùa nắng hay một vài loại thú vật thu mình vào mùa đông giá. Vào mùa nắng, cây mì ngủ yên, ăn dần chất bổ đưa từ củ lên, nên củ trở thành sượng chỉ còn là cái xác nhầy vì không thể hút chất bổ trong cái khô hạn nầy. Chồng lên đó, dân làng bắt chước kinh nghiệm của vật họ ăn. Người thu sống bằng cách ăn củ của cây thu sống. Một cảnh sắc sống chồng lên một cảnh sắc sống khác. Sự việc đó làm cho bầu không khí thầm lặng thêm lên. Những suy tư của người lớn cũng đè nặng lên trẻ con, vì trẻ con nhiều nhân tính, nhiều thiện tâm hơn.
Đàn gà nhạy cảm với ánh sáng hơn nên đã lục tục đi ngủ. Gà mẹ đã quận tròn như quả banh ôm đủ đàn con nhưng không chận được tiếng chim chíp như tiếng trẻ thơ vụng dại. Chiều xuống dần trong giấc ngủ của gà.
Ở đây nhịp sống chậm nên chiều về cũng chậm. Chiều xuống một cách êm ả. Hắn nhớ lại một lần vào chiều ở Trường Bộ Binh. Khi ánh sáng còn vàng như giờ khắc nầy, một người lính già chúc ngược cây kèn đồng lên trời, người và kèn chỉ còn là một bóng nghiêng nổi bật lên nền trời, thổi một khúc nhạc ngắn vừa hùng vừa buồn như kêu gọi trở về với chúa tể vạn năng màu đen, đủ sức bao che tất cả một cách uyên nguyên, khi người và thần linh oan hồn sống lẫn chung hưởng nét dịu hiền của màu đen. Quả thật nét nhạc trên vẫn mang một chút gì u uẩn trong tâm tư. Phải chăng mỗi ngày nơi quân trường nầy người ta nhắc mình rằng đêm sẽ về chốc nữa?
Ở đây mỗi chiều không cần tiếng nhạc ấy. Hắn đã có tiếng kèn gọi chiều soạn với những âm vang hiện thực để làm công việc của người lính kia. Tiếng kèn gọi đêm trong hắn tràn dâng, hóa thân liên tiếp, từ tiếng gà con trong lòng mẹ, tiếng trẻ thơ gọi nhau nơi kia lều tranh; tiếng gió thoảng...
Một lần nữa, gà trở thành ông thầy đời hắn. Con gà kia có đôi cánh lông ấm áp thì vợ chồng hắn có mái tranh thấp đụng đầu. Nhà hắn nhỏ như bàn tay, gà ngủ dười gầm giường. Hai vợ chồng và ba đứa con phải chia một đôi dép cũ; rửa chân lên giường, nhường dép cho người khác; việc nầy trẻ con làm trước. Ngọn đèn lờ mờ như con đom đóm khổng lồ. Cả gia đình đã nằm xong trên cái chõng tre choáng hết một phần ba diện tích; phần còn lại là cái bếp, một cái bàn đóng bằng gỗ thùng và trong xó là một số nông cụ thô sơ: cuốc, xẻng, cào ... Người và vật đều tạm nghỉ theo mặt trời.
Mà cứ nói mặt trời nghỉ cho xong việc vì nó có làm việc nơi kia xa thẳm về hướng tây thì đây nó cũng được gọi là nghỉ. Nó đi đến nơi khác làm việc và kêu gọi người ta làm việc. Độc ác của nó là để lại dấu chân của một ngày nắng ráo, bồ thêm cho cái khắc khoải của cảnh vật; đi đến mọi xó xỉnh, đến tận túp lều tranh nầy; nơi một đàn gà con ngủ với mẹ và trên đầu cao hơn chừng năm tấc, một đàn khác cũng đã đi vào giờ ngủ. Rồi thế giới của người đã xuyên thủng vạc giường để đến thế giới của gà.
Ba đứa con lắng nghe tiếng gà con kêu không mạch lạc trong yên lặng. Chúng nghĩ gì nào ai biết. Nhưng cứ nghe những điều chúng nói, có thể đoán ra những giấc mộng rất đẹp. Mùa nầy nắng, ấp mười trứng mà chỉ nở năm con. Với sự tình cờ tốt đẹp nầy, vợ chồng con cái chia nhau đồng đều mỗi người một con để làm của.
- Gà lớn lên, Tin nói, em bán đi mua đôi dép, nhờ mẹ mua cho cái áo cũ.
- À không, Bi tiếp, có lẽ con gà đen của em gà mái, nó sẽ nở ra một đàn con khác.
Phần cô bé lớn thì: "Ngày mai chị phải chăn gà không cho đi xa chồn bắt mất. Nhà mình cỏ nhiều quá, chồn cáo biết bao. Chị sẽ mua một cuốn tập, một ít chỉ màu, ít cây kim chị thêu cho vui. À còn ba má thì làm gì ba má?"
Bà mẹ mảnh dẻ ban chiều mặc cái áo trận hoa dù rách tả tơi đáp:
- Để dành Tết; còn cả tám tháng nữa, chắc quá lứa nhưng phải để dành hai con gà cúng ông bà. Mình nghèo thì thần linh tiên tổ cũng nghèo theo. Lâu nay giỗ ông bà có làm gì đâu. Ba lấy cái lon làm cái lư hương ngoài trời mà mẹ không tiền mua bó nhang. Thần linh tiên tổ cũng nghèo theo con ạ.
Phần hắn, hắn vẫn để tay trên trán lắng nghe tiếng gió, lắng nghe mộng đẹp của các con và dự tính tương lai gần gũi của người vợ.
Hắn tự nhủ: "Người bạn năm xưa của tôi ơi, người bạn thân nhất của đời tôi ơi, sao nàng lại lôi kéo cả thần linh tiên tổ vào câu chuyện nầy? Sao không để cho họ siêu thoát đầu thai kiếp khác mà kéo họ vào kiếp sống của con người để ngày Tết hưởng cái hương vị nhạt nhẽo của con gà luột, không hành, không tỏi, không tiêu. Thì ra cả vũ trụ bao la và thời gian miên viễn đã vào đầy đủ cái nhà tranh nhầu nát nầy. Làm sao có thể nói như thơ Trụ Vũ: Cửa hồn tôi khép lại không cho vũ trụ lòn vô?
Quấn quít miệt mài trong bối cảnh ấy như một điểm trên bộ trục hàm số; một bên là trục đứng của không gian, một bên trục nằm của thời gian, đến từ vô tận, gặp nhau ở một điểm rồi đi mãi vô tận. Ở đâu trong mặt phẳng ấy cũng mang một tung độ và một hoành độ; cho dù ở điểm không vẫn có tung không và hoành không. Ra khỏi chăng bộ trục tung hoành ấy? Thần linh, tiên tổ, vũ trụ, trời đất, trẻ con và mộng đẹp cùng đàn gà đã về đây, nơi căn nhà rách nát mà chiều nay chứng kiến cơn gió đàn áp đám cỏ bên hè.
Tiếng kêu chim chíp của mấy con gà con ngái ngủ chấm phá cái yên lặng. Với mộng đẹp, trẻ thơ quên bẳng tối nay cũng như những tối khác không có gì ăn tối. Đã lâu lắm, vợ chồng hắn quyết định đem buổi cơm tối thành buổi cơm sáng vì không tài nào chịu nỗi bụng đói đến trưa. Tối thì khuây khỏa lấp liễm cơn đói với chén nước lá chùm bao, hà thủ ô, rồi đi ngủ như gà. May lắm mới có củ khoai lang bằng ngón chân cái. Người mẹ trong vợ hắn phải ấp ủ ru ngủ ba đứa con bằng những câu chuyện đời xưa, chuyện thần tiên để làm giàu trí tưởng tượng của trẻ thơ."ngày xửa, ngày xưa.."
Những cái ngày xửa ngày xưa ấy rất gần với chúng bởi lẽ duy nhất chúng vừa bước ra khỏi cái ngày xưa của một kiếp sống trước để đi vào cuộc sống hôm nay: phải thay phiên nhau đôi dép rửa chân trước khi đi ngủ và ngủ bụng đói. Mẹ chúng kể cho nghe những chuyện êm ả của cuộc đời, để lại những dấu chân chim trên đoạn đường sơ khởi và nhất là để thấy đời đủ đẹp mà ngủ yên đêm nay.
Nhưng thế giới của gà dưới kia lại xen vào. Thằng lớn nói:
- Sao ba không kiếm lưới đóng cái lồng nhốt gà lại, con sợ chuột cống lẻn vào kéo cả mẹ lẫn con thì con làm sao mua đôi dép đây? Con muốn bắt nó lên ngủ chung cho khỏi chuột.
- Lưới thì đây không kiếm ra, chắc phải lấy mấy miếng ván đóng thành cái hộp rồi xoi lỗ cho nó thở.
Sau đó hắn nói thầm:" À ra thằng nhỏ nói thế lại kéo cả thần linh tổ tiên trở về đây vì chuột đâu cần phân biệt con gà nào để con bán đi mua đôi dép và con gà nào nuôi lên để cúng ngày Tết".
Tiếng hét la, tiếng gõ thùng thiết vang dậy xóm đằng kia. Mấy đứa nhỏ ôm ghì bố mẹ. Hắn kinh hoàng đề phòng khi hữu sự. Chuyện gì xẩy ra cho cái xóm mới mở nầy? Trộm cướp chăng? Giết người chăng? Hay chuyện gì nữa? Một cuộc chiến thứ hai trong đống tro tàn chưa nguội của cuộc chiến vừa qua chăng? Kinh hoàng đến với nó, vì ha71n chỉ quen với tiếng gió, tiếng gà kêu. Tiếng la hét, tiếng thùng thiết kéo dài.
- Cái gì thế em nhỉ? Trộm cướp hay là ...? Hắn hỏi.
- Em quên nói với anh, vợ hắn đáp, có gì đâu, bên kia người đuổi le le vịt trời. Le le vịt trời lại vào làm tổ trong đám lúa quanh suối. Chiều nay em qua đánh tranh bên chị Năm, bà con bên đó hẹn nhau tối nay cùng ra đuổi vịt trời kẻo nó phá quá; làm tổ khắp nơi quậy nát hết. Còn làm dài dài đêm nầy qua đêm khác. Lại thêm một nỗi khổ nữa anh nhỉ; ban ngày thì hò la đuổi chim chóc, tối lại vịt trời.
Hắn thấy yên ổn với lời giải thích ấy.

Nơi đây một con suối chảy qua một cánh rừng trước kia khá nhiều gỗ dân làng mặc tình vào đốn để đốt than. Dọc theo con đường nhựa liên tỉnh còn thấy những lò than bằng đất vàng, vòm tròn như những ngôi nhà trên tuyết của dân Eskimo miền Bắc nước đá. Cây cối nay đã hết, đất trơ cho tranh mọc, chỉ còn những bụi tre gai mới hồi sinh sau các đám cháy, nằm chơ vơ cách trở nhau. Sau sự thay đổi chính trị, dân cư nơi thủ đô cũ, từng gia đình một, về đây kiếm tranh tre cất một túp lều nhỏ như cái chuồng trâu dọc theo các con đường ngoằn ngoèo xe bò chở củi trước đây hằn nét lên.
Con suối nhỏ chẳng giúp ích gì ngoài việc cung cấp nước uống làm mặt bủng da chì cái bụng ỏng nếu làm biếng đun sôi. Con suối ấy cũng chỉ giữ lại chút màu xanh cuối đường lửa cháy, nuôi dưỡng hàng tre xanh cho chim đậu mỗi khi bị xua đuổi bằng tiếng la hét, bằng tiếng kẻn, thùng thiết. Những nơi nào thoai thoải chèn vào sườn núi dốc, dân mới lập nghiệp làm vườn trồng ít chôm chôm, ít thơm ít chuối hay ít hàng mía cho ngọt cuộc đời.
Dưới kia thấp hơn là của đám dân cũ có ít ruộng chênh lệch cao thấp không bao lăm. Đó là những mảnh đất quanh xã lỵ với các căn nhà bằng gỗ trong một lối kiến trúc thô sơ. Chợ nằm ngay ở đường nhựa, buôn bán đổi chát và cũng biết thích ứng với nền kinh tế mới đi theo cuộc thay đổi chính trị mới đây. Từ xóm nhà cũ, ta có thể đặt chân đi theo con đường mòn xe bò chạy vào vùng khô nơi có con suối chảy, nơi dân thành về sinh sống.
Sau một đêm khô ráo, không mưa không gió, ngủ dậy dân làng quanh suối thấy nước dâng lên ngập vườn, la ơi ới như lụt từ nguồn. Ngạc nhiên là nước không chảy xiết mà lắng hơn.
Chiều hôm trước nơi vùng đất thấp, người ta mới khánh thành một cái đập và đóng cửa ngăn nước. Vùng khô biến thành biển, chôn vùi vườn tược, nhà cửa, đường đi. Cây cối vàng úa, tàn lụi. Nơi nào không sâu quá đầu gối thì cha con vợ chồng hì hục cuốc lên cấy lúa.
Và từ đó trên quả đất xuất hiện những thửa ruộng to bằng cái giường nằm.Và từ đó chim muông, vịt trời về làm tổ uyên ương. Và từ đó hôm nay họ hẹn nhau hò hét xua đuổi đàn chim, kinh động giấc ngủ nơi túp lều tranh của hắn.
Giờ đây hắn thấy yên ổn. Yên lặng triền miên. Gió rì rào như tiếng mưa, cái mưa người và cây cỏ chờ mong trong mùa khô nắng nầy. Cây đèn dầu không bóng lập lòe trong đêm. Bốn cái chân giường chạy lên tận mái lá vì giường làm bạ vào bốn cột nhà: cột nhà và chân giường là một.
Trên một cột nhà vừa là cột giường ấy, gió lung lay cái áo trận hoa dù như một bóng ma, lạc lõng từ một nơi nào.Vợ hắn ngồi dậy đưa tay lấy nhẹ cái áo choàng lên vai gầy, có lẽ vì lạnh. Cái áo ban chiều vợ hắn mặc đi làm bên xóm đẩm mồ hôi đã khô vì gió thổi. Tiếng mọt ăn tre như người nghiến răng khi ngủ.
- Anh nhỉ, bà ta nói, liệu mùa mưa sắp đến cái nhà nầy có chịu nỗi hay không. Mưa thì mái tranh nặng lắm. Tranh tre hiếm rồi. Chị Tư phải đi bòn mót, cả vợ chồng con cái mà chưa đủ lợp. Rồi cái gì cũng phải mua, mà tiền,.. Nhưng em chẳng muốn lo chẳng muốn buồn. Hay quá, gió nên không có con muỗi nào. Còn sớm để em lột ít khoai mì ngâm nước cho đỡ độc sáng mai nấu sớm đi làm cho mát.
Vợ hắn nhảy xuống đất. Không cần đi thêm một bước nào thì cái bàn đã nằm ngay trước mặt; mọi vật cần thiết đã ở ngay trong tầm tay: cây đèn dầu, con dao, thúng khoai, cái soong lưng nước để ngâm. Hắn muốn ngồi dậy phụ giúp vợ nhưng lại thôi vì hai lẽ: nhà chỉ có một con dao và nhà chỉ có một đôi dép duy nhất.
- Người ta nói với em, bà ta bắt đầu, khoai mì rất độc vì chất gì mà các điệp viên dùng để tự tử khi bị bắt. Xi a nuy (cianure) thì phải. Nó nằm nhiều ở đầu củ khoai và ở vỏ. Ngâm nước, nó đi bớt.
- Anh cần gì! hắn nói. Em không biết câu "dĩ độc trị độc" chăng? Rồi đây cứ ăn khoai mì mãi chúng ta sẽ tạo ra một lớp người mới, nuốt xi a nuy như ăn kẹo. Ăn vào một số lượng nhỏ chất độc, thân thể sẽ làm quen sẽ thành miễn độc. Đó là công trạng lớn lao mà chúng ta đem lại cho loài người. Sao bà tốn công ngồi lột mì trong đêm ngâm mất cái chất độc quí hóa ấy. Coi chừng lịch sử sẽ phê phán em đấy.
Vợ hắn cản lại: "Anh bao giờ cũng gàn gỡ. ‘triết lý con tườu văn chương cóc’. Khoa học là thế nầy: chất độc trong khoai mì không tác hại cho cơ thể nào có đủ dinh dưỡng; còn các bộ xương cách trí chỉ nuôi nó mạnh thêm làm xúc tác cho nó giết người. Tại nơi nầy, chúng ta có ăn gì đâu ngoài khoai mì, còn gạo chỉ làm cảnh cho đẹp để gọi là cơm, chút nước mắm. Anh có bẩy được con chim con thú nào không. Nuôi gà thì chồn ăn chuột bắt. Thôi ông ơi."
Hắn yên lặng như thua trận. Ít lâu sau vợ hắn lại lên tiếng:
- Này anh, hồi nãy em dỗ con ngủ, em bảo các con phải ăn ở hiền lành sau nầy sung sướng thì thằng Tin nó hỏi trên cõi tiên có khoai mì hay không. Anh biết em trả lời làm sao không. Em bảo có chứ thì thằng Bi nói như vậy có khác gì đâu. Túng quá em nói tiếp: Trên tiên cảnh người ta ăn khoai mì chấm đường còn ở đây mình ăn với muối. Anh biết đứa con gái lớn của anh nó nói sao. "Được rồi, ngày mai con sẽ cuốc đất trồng mía". Rồi thằng Bi nhất định đi theo chị kiếm cho ra cục đường để ăn khoai mì như các nàng tiên. Chồng em ơi, làm sao em có thể đối đầu với lũ con ngây dại mà em nghĩ có phần nào thông minh. Anh nhỉ, làm sao đây?".

Bồng Lai? Tiên Cảnh? Hắn tự hỏi sao người đời cứ vướng bận với loài tiên. Hắn nhìn người vợ trong cái áo trận phong sương, lưu dấu một cuộc chiến tàn lụi. Hắn thấy trong đó một cô học trò, người bạn năm xưa. Họ quen nhau vào thời mà hắn rất say mê mua sách cũ ở vĩa hè, vào thời mà hắn thích bỏ tay vô túi quần ung dung đi nghe nhạc ở con đường cây xanh lá. Họ quen nhau đến bốn năm rồi lấy nhau trước khi nàng được 18.
Bồng Lai? Tiên Cảnh? Hắn nhìn mãi bóng người vợ lung linh theo ánh đèn dầu trong cái áo trận hoa dù rách nát còn vướng đất bụi và mùi mồ hôi. Nầy cô em, phải chăng cô em đã phá then vàng vì không chịu nỗi các bức tường dù là tường của tiên giới, cô em đã chém then vàng chăng để thưởng thức một nhành hoa dại ngoài bờ rào rồi cô em bị đọa chăng? Có phải vì vậy mà cô em còn vướng bận với thần tiên chăng? Nầy cô em?
Bồng Lai? Tiên Cảnh? Con người bị đọa từ tiên giới chăng? rồi còn giữ lại một chút nào xa xưa? Phải chăng Ngọc Hoàng hóa phép một cách chểnh mãng hay vì từ tâm hoặc vì mánh khóe độc hại còn cho chúng giữ một chút gì xa xưa??? Trước đây hắn đọc một bài về việc thuần hóa súc vật hoang dã. Đến mục chó, tác giả nói rằng đã vạn năm mà con chó trong nhà vẫn quay một vòng mới nằm xuống; đó là thói quen tích tụ vào xương tủy từ thời tổ tiên chúng sống trong rừng lá dày, trước khi nằm phải quay quanh lấy đầu đẩy cỏ lá làm ổ. Nếu lý thuyết tiến hóa ấy đúng thì có thể mượn để giải thích tại sao con người cứ hoài vọng vào tiên cảnh, nói về một thời xa xưa, thời vàng son chờ mãi biết đến bao giờ mới có.
- Này em, hắn cất gịong, tại sao người ta đủ can đảm hứa với anh, với em và mọi người một thiên đường em nhỉ? Vì sao những kẻ ấy dám hứa một tương lai tốt đẹp qua một đêm dài kinh hãi đầy tủi hổ cho con người, đầy thương đau và cả chém giết? Họ dám hứa, phải chăng vì anh, em và mọi người đều áp ủ, đều lưu giữ một chút gì của thời hoàng kim nào đó như gia súc vẫn giữ những thói quen của tổ tông tuy không cần thiết?
Vợ hắn hát bản Thiên Thai của Văn Cao tả bước chân hai chàng Lưu Nguyễn chốn Bồng Lai. Ở đây mùa đào chưa từng phai một lần. Thiên tiên hát lên như mời như gọi. Tiếng đàn chơi vơi không ngừng không nghỉ. Nhưng khi nhìn trăng lên, nỗi nhớ nhà cũng tràn dâng. Biết đâu đường về tiên nữ ơi!
Bản nhạc cho hắn một lập luận nói chuyện với vợ:
- Em thấy chưa, đã đến tiên rồi mà còn muốn đi về vì nhớ quê. Huống hồ đây chỉ là lời hứa suông. Anh chỉ thích cái tiên cảnh mà con mình mới quyết định tạo nên trong hình ảnh đơn giản nhất, đầy thực chất của cuộc sống. Anh muốn nói cái tiên cảnh ăn khoai mì với cục đường, cái cục đường biến thành năng lượng và xương cốt. À mà em này, tiên họ cũng có xương sống chứ?
Hắn đứng phắt dậy đến ngay cái bàn dơ dáy, thò tay mó những xái thuốc lào lẫn trong than vê thành một viên rồi đem cái điếu gần ngọn đèn nơi vợ hắn đang thái khoai mì mà hút. Hắn mĩm cười nửa chua chát, nửa khoái cảm khi vợ hắn hứa ngày mai mua cho chút thuốc lào.
Đêm đã về sâu. Gió xào xạc bên vách lá. Vắng lạnh. Tiếng dao thái khoai mì chạm lên thớt gỗ đều đều như nhịp chân đi sâu vào tâm hồn hắn, chấm phết câu văn nội tâm giúp hắn.
Vừa đứng dậy dọn dẹp, vợ hắn nói trìu mến:
- Đầy nồi là vừa. Hộp quẹt em để đây nhé. Sáng mai anh dậy sớm, nhớ đổ nước ra thật kỷ, không thì chua lắm. Một lon gạo đổ vào là đủ, một lon thôi nhé, một lon gạt ngang đừng đong vun. Cố làm sao cho khô, đừng nhão. Đừng vo (gạo) nhé (vitamine) B1 đấy. Cố làm sao ăn cho sớm mà dọn rẫy, năm nay mình cần trồng thêm ít đậu phụng. Làm sớm, chứ mùa nầy nắng lắm. Sáng mai em sẽ mua cho anh ít thuốc lào.

"John Anderson, John Anderson", hắn nói khá lớn nhiều lần, coi bộ thích chí lắm. Vợ hắn hoảng hốt chạy ra, ước chừng muốn bịt miệng hắn lại:
- Anh nói gì đấy? Người ta nghe tưởng mình nói tiếng Mỹ, chết đấy.
Sau khi quay lưng nhìn ra cổng, biết chắc không có ai, bà ta tiếp:
- John Anderson là ai nhỉ? Em nhớ trong số bạn bè quen có ai tên John Anderson đâu.
Đứa con gái duy nhất lại nói:
- Có phải ông già râu ria cầm chiếc đũa trong bức ảnh hồi mình còn ở trên phố không? Cái ông mà ba bảo con là nhạc trưởng?.
Nồi cơm nấu xong là rồi việc. Chỉ còn đem lên bàn lấy năm đôi đũa, sáu cái chén là đủ; chai nước mắm pha thêm muối đã có sẵn; thế là đủ một bữa ăn, rồi đi làm ngoài nắng. Cả nhà ngồi ăn nồi cơm độn 90% khoai mì. Phần hắn, hắn gật gù lui tới mấy chữ John Anderson.
John Anderson?

dek

Sáng nay sau khi dậy sớm nấu nồi cơm khoai mì vợ giao phó, hắn vớ chiếc radio cũ mà người ta mới nhờ sửa hôm qua, buồn tình mở ra nghe chơi. Vừa bậc lên thì hắn nghe ngay: Read by John Anderson. Một cái tên rơi thỏm vào không gian nầy. Ở đây người ta sống lặng lẽ âm thầm bên đống khoai mì, trong giấc mộng cỏn con gởi nơi đàn gà mới nở, với tiếng gió, với cỏ khô, với hoang vu cô tịch. Mỗi gia đình trong một mái nhà tranh sống như những hoang đảo hầu như biệt lập, không phải vì thiếu tinh thần đoàn kết mà vì cái gì bí ẩn, vì dè dặt lẫn nhau? vì nhẫn nhục ...
Bên kia bờ tre có những ai? Đầu góc suối kia có những gì? Chắc là không có ai. Mà có chăng thì những người có quyền thế ấy không nghĩ nơi khô ráo nầy lại có người. Bằng chứng là họ làm cái đập nước mà bên nầy nào ai có hay cho đến khi nước dâng vào nhà, ngập vườn chết cây. Hoang vắng cả trong lòng, hoang vắng cả bên ngoài. Tâm cảm lạc lõng chưa bao giờ đè nặng lên hắn đến thế. Cái áo trận hoa dù vợ hắn mặc cũng là một thứ lạc lõng trong đời.
Sớm lắm, khi bóng tối còn nguyên vẹn, khi chỉ mới nghe tiếng xe bò lạch cạch đằng xa, John Anderson đã xuất hiện như để được hẹn ăn cơm khoai mì với vợ chồng hắn sáng nay.
- Anh quen John Anderson nào đó? vợ hắn hỏi, mà nói làm gì, mấy đứa nhỏ không biết gì nói ra người ta tưởng mình liên lạc với Mỹ thì chỉ có chết thôi. Anh không nhớ gần nhà cũ của mình, sau khi đổi đời, một lũ trẻ đã vào nhà giáo sư Kim kéo tất cả sách ra đốt và kệ sách đầu tiên bỏ vào lửa là mấy cuốn lý thuyết căn bản đầu giường của bậc thầy những người đi đốt ấy, chỉ vì một lý do là viết bằng tiếng Anh tuy được in ở Nga. Vợ ông giáo cho em biết trường đại học cho mượn những sách ấy soạn bài giảng và viết luận án. Anh liệu mà John Anderson.
Hắn đưa mắt ra xa tận bờ suối, nơi một chút màu xanh lá còn sót lại trong mùa hạn nầy.
- Em, hắn hạ thấp giọng, anh yêu em lắm. Em nói là một chuyện xẩy ra nhưng với anh đó là một biến cố. Không những nó dày vò thương tổn ông giáo kia, nó còn dày vò tất cả những ai còn chút lương tâm.
Rồi hắn tiếp:
- John Anderson anh không quen nhưng sáng nay John nói chuyện với anh khoảng 4 giờ sáng, nói trong cái giọng rò rè của cái radio cũ mà bác Hai nhờ nối dây pin vì bác mắt mờ không có kính. John đài Úc. Anh không quen John Anderson nhưng anh thấy rất gần gũi, mà em nên hiểu cảm nghĩ ấy không phải vì John ở Úc. Vì John là một con người nào đó bên kia bờ rào còn nói chuyện với anh. Giá John người Tây Ban Nha, là Bỉ, là Haiti, cảm nghĩ của anh vẫn nguyên vẹn như bây giờ.
Mấy đứa con theo dỏi câu chuyện của bố mẹ một cách kính cẩn, hoàn toàn im lặng. Cơm đã hết mà chúng vẫn ngồi yên nghe. Hắn ăn tiếp chén cơm trong tay. Vợ hắn đứng dậy xem thử có ai đi vào không. Yên tân không có ai nên bảo chồng nói tiếp.
- John Anderson có biết em đâu, có biết anh đâu nhưng John tự hiểu ở đâu đó trên quả đất còn có những con người hiện diện, những con người khác John hầu như mọi mặt. Trong lúc ấy này em, có những con người biết rõ ta, cả tên cha ông chúng ta cả ba đời kia mà, họ còn biết dấu tay của ta, trên môi trên mép, trên vành tai có dấu vết gì, nhưng họ có biết vợ chồng mình có mặt trên quả đất nầy đâu.
- Em hiểu ý anh, vợ hắn nói, tối qua khi em hát bài Thiên Thai, anh bảo đến cõi tiên rồi mà Lưu Nguyễn còn chán, nhớ về quê cũ; như vậy anh cũng không thích gì tiên nương xa vời. Đúng. Và John cũng xa vời vậy. Làm sao John đến đây xuyên qua bức màn vây hãm nầy. John cũng xa vời như các nàng tiên.
- Không em ạ.
Vừa đến đấy thì chó sủa. Hai vợ chồng đứng dậy lo sợ có ai chăng. Hắn ngồi xuống nói tiếp:
- Không sao, người ta đi qua đường, không vào đây. Chiều nay anh sẽ đóng cái bè chuối, bỏ xuống suối trước nhà, anh chèo chống đi mãi lên tận nguồn, mãi đến nơi không gian và thời gian gặp nhau rất có thể anh sẽ gặp tiên. Hay tối nay, tiên sẽ bay về đây đậu trên nóc nhà mình. Rồi tiên sẽ đi và anh sẽ trở về với em. Anh có thể gặp tiên và tiên có thể gặp anh. Nhưng anh và John không thể gặp nhau được, màn sắt quá cứng, màn tre quá dày.
Đứa con gái đem cho hắn ly nước nóng. Hắn uống. Vợ hắn ra chiều thắc mắc. Bà ta nói:
- Năm nào anh có giảng cho em ý niệm không thiên thần không thú vật. Em có thể đem điều nầy ra để hiểu ý anh không?
Hắn đứng dậy đầy cảm khoái:
- Vợ tôi quả thật là cô học trò giỏi nhất.
Hắn vỗ vai vợ và hôn nhẹ lên mái tóc. Hắn bước qua sau ghế của bà ta, hai tay đặt lên vai vợ, mắt xa xăm nhìn ra phía trước nhà, lau lách triền miên. Ba đứa con vẫn ngồi tham dự một cách trang nghiêm và ngây thơ vào cuộc nói chuyện nầy. Tiếng gà gáy rơi lỏm bỏm đâu đây. Ánh sáng rì rào trong vườn rẫy. Màu sắc hát vang chào mừng. Hắn muốn hát khúc nhạc tươi vui nhưng sợ mất cái yên lặng nội tâm trìu mến. Hắn vẫn đứng sau lưng vợ, hai tay đặt lên vai nàng.
Đứa bé gái đứng dậy qua bếp bưng ra một nồi khoai mì. Mẹ nó cản:
- Con đem ra làm gì. Để đấy 10 giờ rồi ăn, ăn bây giờ chốc nữa lấy gì mà ăn.
Để vừa lòng con hắn bảo vợ:
- Đừng rầy con. Thôi thì ăn tráng miệng vậy.
Hai đứa trai lấy phần nhưng chưa ăn. Đứa gái thì nhắc lại chuyện cũ:
- Ở đây mình ăn khoai mì với muối, trên thiên đàng ăn mì với đường. Con lấy muối cho ba nhé.
Ra khỏi cái yên lặng ban nãy, hắn bảo vợ:
- Cái tên xa lạ ấy làm anh thấy bớt cô độc vì lẽ cái tên ấy, người ấy không phải là tiên, cũng không phải loại người hứa cho chúng ta tiên cảnh. Hơn bao giờ hết, lúc nầy ta nên vận dụng ý niệm em vừa nói: không thiên thần, không thú vật.
Vợ hắn cười thắc mắc:
- Lúc nầy anh làm gì được với thứ ấy, khi họ không biết anh có mặt ở đây. Họ xem anh như không có trên cõi đời nầy.
- Anh hiểu khó khăn ấy; hắn đáp. Nhưng sao không chuẩn bị sẵn sàng nói cho các con biết điều đó. Không cần nhồi nhét mà trái lại giải thích, bảo chúng suy nghĩ tự tìm cho ra ý nghĩa. Đừng nhồi nhét. Lớp học chỉ có ba trò mà một cô, một thầy giảng dạy. Chỉ có ba trò thôi nhưng em đừng nản. Cần một điểm tựa để nâng đời lên. Một điểm tựa, một điểm đứng. Đừng nhồi nhét mà giải thích thiết tha và sắc bén: xin người đời đừng đưa con người về với thú vật bằng cách hứa một thiên đường, có thiên thần, có tiên nữ cuối con đường đầy... Mà nầy em, em có hứa hão mua cho anh chút thuốc lào hôm nay không?
- Tầm bậy, vợ hắn đáp, em mua chứ. Chốc nữa thím Ba đi qua đây em sẽ gởi nhờ mua.
Hắn đứng dậy vớ cái nón rách móc ở vách lá vừa nói:
- Thôi, đi làm chứ, cứ ngồi nói thế nầy thì đói thôi. Chốc nữa em đem cái radio cho bác Hai, nhớ nói, à mà nói trong lòng thôi nhé, cảm ơn bác nhờ bác mới có cái radio nầy để mình biết John Anderson; nói thầm kẻo người ta tưởng mình liên lạc với Mỹ.
Vợ hắn trìu mến nói:
- Anh còn dạy khôn cho em sao? Hồi nãy ngoài sân la ó Anderson Anderson làm người ta sợ gần chết.
Hắn cầm cây cuốc dựng ở cửa. Nắng vàng trìu mến rầm rì trong đám cỏ khô, màu sắc hát vang.
- Chờ em với, vợ hắn kêu, em đi làm cỏ với anh.
Vợ chồng hắn bước ra sân, mấy đứa nhỏ vây quanh đàn gà mới nở. Cả hai đứng lại. Người vợ vỗ nhẹ vai chồng, mắt nhìn đàn con nói:
- Này anh, em muốn nói với anh cái này. Cái "không thiên thần" trong anh và cái "không thú vật" trong em có thương yêu nhau không? Nhìn con em tin chắc bọn mình không đẻ ra thú vật và chúng ta không để chúng thành thú vật".

Vợ hắn nhìn hắn trìu mến, không quên kèm theo một nụ cười. Một nụ cười, cái xá lợi sáng chói của đời hắn, cho đời hắn.-

******************************************************




No comments:

Post a Comment