Au milieu du chemin de la vie Dante
góc đường xa
tôn thất tuệ
|
Tôi vẫn nghĩ cuộc
đời như con đường, như dòng suối chảy mãi. Con đường biểu tượng cho sự xây dựng
của con người, tự nó không có khi trời đất lập nên. Mượn hình ảnh ấy, nhà văn
Trung Hoa Lâm Ngữ Đường nói rằng hy vọng do con người tạo ra như con người tạo dựng những
con đường buổi ban sơ. Những ngánh sông, những ngã ba đường bao giờ cũng cho ta
ý niệm xa xăm ở góc đằng kia có cái gì. Ai ở đằng kia?
@
Hồi tôi còn bé, có phong trào các nhật báo Saigon tặng bản đồ để câu khách. Tôi mua treo đầy tường khắp nhà, đứng ngắm nghía lấy que tre chỉ chọt chỗ nầy chỗ nọ. Một ông hàng xóm đến nói trong nhà rằng thằng bé sau nầy sẽ trở thành một nhà chính trị hay chiến lược. Lúc ấy tôi chưa thấy sự liên hệ giữa địa dư và chính trị. Đến khi tôi biết điều nầy, tôi cũng biết rằng người kia không biết việc tôi làm. Tôi đã không nghiên cứu các thế chiến lược, những eo bể, nách sông, những pháo đài trên mặt trận thế giới.
Tôi cầm bút chì
chỉ chỗ nầy là Groeland, chỗ kia là góc sông Amazone, chỗ nọ là Sibérie... Các
nơi ấy giờ nầy, giờ tôi đang đứng trước bản đồ, một ai đó, một kẻ nào đang làm
gì? Họ ngủ chăng? Họ ăn chăng? mà ngủ thì ngủ đâu, trong giường ấm hay nơi đất
lạnh? Mà ăn thì ăn sao? sung túc hay ăn trái ổi chua lừa cơn đói? Và cứ thế giờ
nầy qua giờ nọ, từ Phi Châu đến Á Châu, qua Mỹ Châu... vẫn những câu hỏi vớ vẩn
ấy, hỏi lấy một mình trước những tấm bảng đồ màu mè xanh đỏ tím vàng.
Việc làm ngớ ngẩn ấy được thực hiện trên bình diện lớn với bản đồ. Nó chỉ tiếp tục công việc vu vơ của tôi từ thuở bé. Đi học về với đôi chân không xủi tung bụi trên đường đất mịn, tôi cứ thầm hỏi giờ nầy ở nhà chị đang làm gì; ở làng kia cậu đang câu cá chăng? Ở tỉnh nọ, ông giáo về hưu còn sống hay chết rồi?
Những con đường vẽ vội trên bàn đồ hay trong trí tưởng đã đưa tôi đến những con người ở một nơi xa xôi không bao giờ đặt chân đến. Tôi vẫn giữ tâm cảm cho một ai rất xa, một hình bóng nhân thể. Tôi vẫn mường tượng một em bé đi trên đường mòn nhỏ như sợi chỉ, một chú bé trên lưng bò như những hình ảnh sáng chói của nhân loại. Chính vì vậy khi đọc một bài trên Asiaweek mà tôi làm quen trên đất Thái, tôi đã ủng hộ việc làm của tuần báo nầy là đưa báo chí đến những nơi lãng quên. Bất cứ nơi nào có dấu chân người đều nằm trong sứ mệnh của người cầm bút.
@
Vào một đêm văn
nghệ cuối năm học, tôi được mời đóng vai Cát Nhiếp trong một vở kịch về Kinh
Kha, chỉ xuất hiện chừng một phút. Kiếm sĩ già đã nói với tráng sĩ trên đường
hành thích Tần Thủy Hoàng võn vẹn có một câu:
- Ngày mai trên các nẻo đường thiên hạ,
ngươi sẽ về đâu?
Xong câu ấy, tôi
tiễn Kinh Kha lên đường và tôi tiễn tôi ra khỏi sân khấu để chấm dứt công việc.
Câu ấy cứ gieo
mãi trong đầu tôi ý niệm cuộc đời như con đường, như ngánh sông, như một khả thể.
Cuộc đời như chỉ là bâng khuâng, như chỉ là mong manh.
Tôi gặp một
huynh trưởng Hướng đạo cầm cây gậy 1,2m, một đầu bọc sắt nhọn, một đầu là một nạng
hai hình chữ V, dấu hiệu tráng sinh lên đường. Anh ấy giải thích tráng sinh phải
phân biệt hai con đường tốt và xấu. Sau lửa trại, chúng tôi rời đồi Từ Hiếu (Huế)
đến một ngã ba đường dự lễ lên đường của một tráng sinh khác.
Nằm ngay trục lộ
là một cây đèn bão. Tráng sinh lên đường lập lại ba lời hứa (trung thành với tổ
quốc, tôn trọng danh dự và luật Hướng đạo). Tiếp đến anh bảo trợ trao cây gậy
có nạng hai và cây đèn bão, làm nguồn sáng duy nhất cho buổi lễ đơn giản nầy.
Hành sĩ chào tất cả, tay cầm cây đèn, vai đeo ba lô, tay kia cầm cây gậy. Chúng
tôi tiễn người đi bằng những tiếng chiêng ngân trong đêm tối. Âm thanh chập chờn
như ánh đèn chập chờn từ từ xa dần. Lên đường như đi vào cuộc đời. Mọi người trở
về khu cắm trại trong yên lặng như người kia yên lặng bước đi với cây đèn trong
tay.
Tôi ngả người nằm
trên đất cạnh lều vải trong cái lành lạnh nhè nhẹ của hơi sương, trong cái âm ấm
nhè nhẹ của đất triền đồi. Ngẩn mặt lên, trời đầy sao. Sao vẫn đi, sao vẫn có một
quĩ đạo. Tôi tưởng tượng chốc nữa hành sĩ kia sẽ ngả người ra nghỉ, mắt cũng
nhìn sao, sao đi. Nhưng giờ nầy đang cầm cây gậy nạng hai.
Cái nạng như hai
con đường mà tráng sinh kia quan niệm. Dĩ nhiên ai cũng có quyền gán cho sự vật
một ý nghĩa, một nội dung. Nhưng tôi không đồng ý quan niệm cứng nhắc cho rằng
cuộc đời chỉ có hai con đường. Cuộc đời có nhiều khả thể, không duy chỉ có hai;
tuy rằng mỗi chúng ta chỉ có thể chọn một con đường vì chỉ có một đôi chân. Một
giây phút chỉ có thể có một tâm cảm dành cho một sự việc, cho một người. Một
con đường tuy rằng đời như ngánh sông. Các nẻo đường ấy hẳn làm chúng ta bâng
khuâng như Cát Nhiếp đã hỏi Kinh Kha: Ngày mai trên các nẻo đường thiên hạ,
ngươi sẽ về đâu?
@
Pleiku, cao nguyên, 1967
Pleiku, cao nguyên, 1967
Nếu con đường gợi ý niệm đời như một sinh thành, cũng không nên quên ảnh hưởng của nó trong lịch sử. Vua Lê Đại Hành đã đích thân đến khánh thành con đường phóng từ Thanh Hóa xuống Nam. Đó là ngày khai tử của dân tộc Chàm. Đó cũng là ngày khai sinh của miền Nam gồm đất Chiêm Thành và một phần lớn của Thủy Chân Lạp. Con đường Trường Sơn là đòn trí mạng đánh vào số phận miền Nam. Đó là đường xương sống Việt Mên Lào vì ai chiếm cao nguyên Boloven sẽ chiếm Đông Dương, lời một nhà chiến lược Pháp và cũng là kinh nhật tụng của bất cứ ai muốn chiếm bán đảo nầy. (Qui tient Boloven tiendra l'Indochine).
Con đường xuyên
Á đang được nghiên cứu sẽ ảnh hưởng đến đại lục trầm lặng nầy. Những hành lang
từ Âu Châu đến Bá Linh là huyết mạch cho hòn đảo tự do trong vùng đất đen; quyết
định phong tỏa của Kroutchev đã tạo nên cơn sốt hãi hùng cho thế giới. Nói đến
đường, phải kể đường dầu đi, khí đốt đi. Đường tải dầu từ Alaska xuống Mỹ, đường
hơi đốt từ Nga xuống Âu Châu hay qua Nhật đang ảnh hưởng định mệnh của thế giới.
Đó chưa kể đến đường bay đường thủy, những quĩ đạo vệ tinh, sự xuất hiện phi
thuyền con thoi Columbia, Challenger, con đường chuyển tin internet.... đưa nhân loại đến một
khung cảnh sống mới.
@
Nhưng thật ra
tôi chỉ quan tâm đến những con đường, những mạch sống không nằm trong đầu óc của
máy điện toán, trong những con người tính toán thiệt hơn. Tôi vẫn thấy
con đường trong nét bút, con đường trong những dòng nước mưa chảy trên sân. Tôi
vẫn thấy những con đường chảy theo những giọt nước trên cửa kính như những giọt
nước mắt từ đôi mắt ướt đẫm chảy xuống má vì một phút nhớ nhung hay vì một ray
rức của tâm hồn.
Tôi
vẫn thấy con đường trong các lối sáng tạo nghệ thuật, những con đường khai
thông bế tắt của tư tưởng. Tôi vẫn thấy tình yêu là con đường đưa đến thế giới
vô biên của cõi lòng như một vườn hoa rất đẹp đưa ta đến kinh nghiệm tâm linh rất
đặc biệt, những biên giới mới cần khám phá.
Một xe Lambro ba
bánh dừng lại ở một làng quê: một gánh hát dạo nghèo, tất cả gói ghém trong chiếc
xe kiểu đặc biệt của người Ý trên bước đường lưu diễn. Một bà mẹ đem bé gái hơn
mười tuổi bán cho đoàn văn nghệ. Bé sống đây làm các công việc vặt vãnh. Có cảm
tưởng ông bầu mua bé trong một phút bốc đồng, động lòng trắc ẩn muốn cho bà có
số tiền lúc túng quẩn phải đem con đi bán.
Sự hiện diện của
bé chỉ làm cồng kềnh thêm cho gánh hát, thêm một miệng ăn, cho thêm sức nặng đè
lên xe ba bánh xe; một cục thịt thừa, một khúc ruột dư cho cơ thể vốn cần sự gọn
gàng di chuyển, di chuyển mãi trong sự nghiệp cầm ca.
Bị la rầy đánh đập
là chuyện thường. Bé vụng lắm; sống với quê với mẹ nào có biết gì, mà bé lại gầy,
những tháng qua đâu có đủ ăn. Dần dà người ta tập cho bé thổi kèn đồng, khi những
con khỉ nhảy múa trong áo quần dơ dáy, quây quanh là các khán giả đầu đường. Cuộc
sống cơ cực nay đây mai đó với sự ruồng bỏ, sống xa mẹ. Tất cả chỉ làm cho bé
xanh xao võ vàng thêm. Hôm ấy đoàn người ghé lại một vùng thấp có những vũng nước
lầy. Sau khi mọi việc đã xếp lại chờ đi vào sáng mai, bé ra giữa đám sậy, tay cầm
cây kèn đồng như một thiên thần bay lạc. Bé thổi một khúc nhạc rất buồn.
Rồi đêm ấy bé chết,
trên bước đường lưu diễn. Rồi người ta chôn bé tình cờ vào nơi chiều qua lúc mặt trời gần
khuất bé tấu khúc nhạc cuối cùng của tuổi thơ. Đoàn xe tiếp tục công việc như mọi
ngày.
Bất giác bố già
thấy mất một cái gì, thấy đau đớn trong lòng. Bố đã mất một bé thơ mà bố đánh đập,
mà bố xem như gánh nặng cho chính mình và cho các vỏ xe. Không, bố không có mặc
cảm tội lỗi. Xe bồng bềnh nhồi đời trẻ thơ, nào đâu có muốn, bố muốn đường êm
xe lướt nhẹ. Gánh hát bố nghèo, nào đâu có muốn; bố muốn giàu làm một ông bầu
có nơi chốn ổn định, nào bố có muốn lang thang đầu đường cuối xóm miền Nam Ý cằn cỗi
này. Nào bố có biết mẹ bé là ai. Mẹ bé nghèo mà bán bé cho gánh hát, vì thương
mà bố mua.
Nhưng bố mất một
cái gì mà tâm hồn bố lúc bé còn sống bố đã thua, đã nhường bước cho công việc.
Cái chết của bé làm sống dậy một hiện diện còn giữ lại như ra đi còn kẹt một
chân. Bố phải đi một đoạn đường mới rõ sự việc. Bố định quay đầu xe trở về nơi
chôn bé nhưng lại thôi. Vì con đường gập ghềnh xưa nay không đưa bố đến gặp bé
tuy bé vẫn ngồi kề trên xe. Con đường hôm nay, con đường trong lòng bố mới thật
đưa bố về với bé. Cho nên tìm về nơi chôn bé có lấy lại được bé đâu. Bé đã bay
đi như tiếng kèn thổi vào một chiều định mệnh. Bố tiếp tục con đường gập ghềnh
lưu diễn nay đây mai đó.
Từ đây con đường
vật thể đá nhấp nhô đã thành con đường tâm cảm giúp bố tìm về nét héo mòn của
trẻ thơ, của bờ sậy còn nghe tiếng kèn một chiều rất lắng bên ao nước trên đoạn
đường đời của bố.*
Tôi vẫn thấy con
đường như một hy vọng dù mong manh. Nhiều lần đi máy bay từ Saigon một mình và
hai phi công ngoại quốc nhất là về đêm, tôi thấy gắn bó đời mình vào tiếng nói
xa xăm, tiếng nói vô hình với tôi mà đi qua tay người lái. Những hành lang
không khí chẳng khác gì những con đường phóng ngang một khu rừng hay ruộng lúa.
Tôi vẫn hỏi giờ đây tôi nằm đâu trong không trung và ở góc nhà kia có một ai đó
đang làm gì, một ai đó đang ngồi nghe tín hiệu nơi đài không lưu. Cũng giống
như giờ nầy tôi đang viết, vợ con tôi làm gì ở VN và gần hơn nữa bạn hữu đang
làm gì trong trại Sikiw nầy. Những tâm cảm cứ chồng chất lên nhau.
@
Và đây một con
đường của hy vọng mà là con đường vô vọng nhất. Vì lẽ không có đường mà lại quá
nhiều đường. Ví như con tàu trên biển.
Con tàu như một
điểm trên mặt phẳng từ đó có thể vẽ vô số đường thẳng. Biết bao con đường mà biết
đi con đường nào đây, khi không có hải đồ, không hải bàn, khi không có xăng nhớt,
khi không có thức ăn. Mà biển đâu có bằng như mặt phẳng của hình học, bao gió
táp, bao đá ngầm và bao con người không có nụ cười đang nhấp nhô trong vô tận
chờ đón những ai lấy biển khơi làm con đường lớn nhất cho hy vọng lớn nhất.
Nói không có con
đường trên biển; trước nhất vì các hải đạo nầy đâu có dành cho những con đò,
các chiếc mãng, chiếc bách mà thuyền nhân níu kéo như giải pháp cuối cùng đối chọi
với biển khơi. Đó là chiếc lá mỏng manh hơn chiếc thuyền trẻ con xếp bằng giấy
thả vào lúc trời mưa ngập nước ngõ sân. Thứ đến nào đâu có thấy con đường, nó
chỉ lộ ra đằng sau với lằn rẻ nước kế cận cái chân vịt thô sơ của máy đuôi tôm,
rất ngắn trong tầm gợn, không đủ để phản chiếu ánh trăng. Không có con đường vì
trước mắt đường còn quá xa, miệng đã khô, da mặt nhăn vì muối đóng khằn, trí óc
không bình tĩnh vì đã nhét đầy những ảo giác của biển khơi.
Mà có khi không
phải là con đường của ta mà của một xác chết đang trôi. Xác ấy cũng như thuyền
ta hư máy, mất chân vịt, cả hai đang giành nhau con đường của gió mà chơi. Nó
còn hơn thuyền của ta nữa: nó nhấp nhô với sóng một cách êm ả, không có tiếng
la của trẻ con, không có tiếng ói mữa của thiếu phụ. Cái
xác ấy, nó có con đường, con đường hủy diệt, trong lúc con thuyền của ta chưa
tìm ra được con đường sinh thành.
@
Và ai cũng có một con đường như cuộc đời trôi chảy không ngừng nghỉ, trôi chảy không thôi để không ai tắm hai lần trong một dòng suối như Hiraclite nói. Đó là con đường đi vào ý thức của cuộc sống, làm quan niệm sống, tự soi lấy cho mình một con đường. Tôi thích danh từ "hành giả" dành cho người đi vào hiền triết Đông phương. Chỉ có chính mình đạt được vùng ý thức. Trong cái đảo điên của sự vật, trong sự quyến quận của nguyên nhân và kết quả, hành giả phải thấy cho mình cái chân cái hư bằng kinh nghiệm tâm linh mượn của người khác và của chính mình. Miễn làm sao đi đến một mẫu số chung, cái còn lại cuối cùng để có thề nằm chung với mọi người trên vạn nẻo đường thiên hạ.
@
Từ đó tôi vẫn xem những con đường - con đường vật thể như lối đi, con đường của sáng tạo, con đường của tư tưởng - như dây mướp, dây dưa hấu trổ ra những trái ngọt, giống như đường thiên lý cưu mang những đời người, những làng mạc, những thành phố.
Từ đó tôi vẫn xem những con đường - con đường vật thể như lối đi, con đường của sáng tạo, con đường của tư tưởng - như dây mướp, dây dưa hấu trổ ra những trái ngọt, giống như đường thiên lý cưu mang những đời người, những làng mạc, những thành phố.
Và trên con đường
ta đi, ta sẽ gặp những bạn đồng hành để chia sẻ khó khăn của tâm hồn hay khó
khăn của ngoại cảnh. Để cùng nhau thấy cái sinh thành của cuộc đời. Để có lúc
chia tay ở ngã ba đường. Để có lúc còn gặp lại ở một nơi nào đó.
Dây mướp vẫn bò
thêm, vẫn nở hoa.
Con đường riêng
rẻ của đời tôi bao giờ cũng làm cho tôi hỏi chính tôi: ai chăng đó đang làm gì ở
góc đường xa?
Thái Lan 1982
·
*
Ghi chú: Lúc viết ở Thái Lan, tôi chỉ nhớ rất mơ hồ về phim La Strada (tiếng Ý la strada cũng có nghĩa là con đường) xuất hiện giữa thập niên
1950. Nay tra cứu lại, tôi thấy những điều ghi trên không hoàn toàn đúng với
câu chuyện, nhưng tinh thần, triết lý của cuốn phim không sai khác, cho nên tôi
xin mạng phép giữ nguyên. Quý Vị có thể tham khảo theo link nầy: La Strada, the film.
Lần đầu tiên tôi biết tên phim nầy qua bài phân tích của GS Nguyễn Văn Trung trên tập san Đại Học Huế, chừng 1960. Bốn năm sau, tôi mới có dịp xem phim nầy ở rạp đồng hạng Lê Lợi, Saigon chuyên chiếu phim cũ.
1982, chưa có internet nhưng khi đăng bài nầy tôi có cập nhật.
Lần đầu tiên tôi biết tên phim nầy qua bài phân tích của GS Nguyễn Văn Trung trên tập san Đại Học Huế, chừng 1960. Bốn năm sau, tôi mới có dịp xem phim nầy ở rạp đồng hạng Lê Lợi, Saigon chuyên chiếu phim cũ.
1982, chưa có internet nhưng khi đăng bài nầy tôi có cập nhật.
Cảm ơn anh về một bài viết hay!
ReplyDelete