cải cúc (tầng ô nhúng lẫu!!!!!!) |
hương cúc
tôn thất tuệ
Dạo ấy tôi khoảng
17 tuổi. Chán ngấy những bài học thi lên lớp cuối năm, một hôm vào sáng còn sớm
tôi cầm cây cuốc nhỏ dẩy làn cỏ mép bờ rào chè tàu xanh cắt gọn. Cỏ chưa un
thành đống để vất vào mé sông Bến Ngự nhỏ đằng trước, một bà Bắc Kỳ di cư ở đâu
lối xóm bước qua nhặt hộ. Ngạc nhiên nhưng tôi vẫn im lặng nhìn thầm cử chỉ cộng
tác ấy. Con đường trong vườn nầy có hàng rào xanh kia là nhà người bạn tôi đến
học chung cho vui, nhất là vào đêm ngồi ở cột đèn điện trong thành phố Huế
trầm lặng ấy.
Tôi thấy bà để
riêng một loại cỏ. Sau khi giúp tôi dọn xong đống cỏ vừa đánh ngã, bà ta ôm đống
ấy về. Thấy tôi ngạc nhiên, bà tự ý nói:
- Cảm ơn cậu,
tôi đem về làm bánh. Từ ngày vào đây tôi bây giờ mới tìm ra. Làm bánh xong tôi
sẽ biếu cậu dùng qua cho biết món ăn bắc nầy.
Sau đó tôi chẳng
quan tâm gì. Chiều đến tôi định về nhà ăn cơm rồi trở lại đây cho qua mùa học
thi. Tay cầm cuốn sách, tôi đứng ở ngõ nhìn ra sông, con sông nhỏ bằng bàn
tay mà nước xanh ngắc chả kém gì cô chị là sông Hương ở đàng kia góc cầu Giả
Viên băng qua một cồn cát mịn đưa đoàn xe hỏa đi Quảng Trị. Cát trắng nơi lòng
sông cạn phản chiếu ánh sáng chiều. Vài chiếc đò nhỏ lặng thinh, vài chiếc ghe
độc mộc lướt êm như đi trong hồ; không ai bảo ai, cứ thế mà đi trên dòng sông
xanh. Tôi đứng nhìn sự chuyển dịch nhẹ êm bên bờ ý tưởng của một cậu học trò
trong muôn ngàn học trò xứ Huế khác.
Một cô bé không
quen, chừng 14 tuổi, bước lại trao cho tôi hai nắm xôi gói trong miếng lá chuối
xanh. Tôi đưa tay ra nhận như cái máy tuy cô bé chưa nói gì; một phần đã thấy
đói, một phần vì tâm trạng nằm đâu đâu. Cô nói:
- Mẹ em biếu cậu
cái bánh cúc mẹ hứa sáng nay, cậu dùng cho biết.
Quái nhỉ, tôi tự
bảo, xôi chứ gì. Với cái tinh nghịch tuổi học trò tôi hỏi:
- Thế cô tên Cúc
à?
- Vâng ạ, em tên
Cúc, tên ở nhà, còn đi học tên khác.
Chiều hôm ấy cứ
thế mà mất dần ánh sáng nơi Bến Ngự lặng thinh gần như lạnh. Tôi ăn món bắc ấy
lần đầu tiên. Dưới lớp xôi mỏng là thứ bánh gì deo dẻo, nhân đậu xanh, thơm nực
mùi hành. Hương vị lạ lùng. Ăn bắc mặc
kinh là thế. Tôi không về nhà ăn cơm phần vì no, phần vì muốn giữ hương vị
đặc biệt nầy; mãi đến tối tôi vẫn không uống nước.
Ở lại nhà người
bạn học thi như thuờng lệ, tôi thức dậy từ bốn giờ sáng, đọc các bài luận mẫu
vì ít hôm nữa thi Pháp Văn, môn có hệ số cao nhất sau Việt văn. Tay vẫn cầm cuốn
sách, tôi ra phía sông của bao giờ, con sông thu hút cái mệt mỏi xuất phát từ
bài học. Tôi trở vào, vừa đi vừa đọc theo bờ rào chè tàu xanh. Bất giác mùi
bánh cúc, hương vị miền Bắc mới đưa vào Nam làm sống dậy trong tôi cảm giác lạ
lùng khó tả. Tôi có cảm tưởng những gì vừa học từ tảng sáng đã đổ xuống đất như
nước đổ trên tượng. Tôi nhìn xuống đất xem thử có còn giọt nước nào vừa chảy
qua tượng đá người tôi chăng?. Chẳng có gì. Hôm qua tôi không để ý cây cúc nó
ra làm sao. Giờ đây thì không tìm được, đã mất rồi. Bờ cỏ bên bờ dậu đã sạch nhẵn
để lại đất mịn còn chút sương mai. Không có một tí cỏ, huống hồ là cỏ cúc. Hôm
qua mẹ Cúc đã nhặt hết, còn cây nào sót lại thì đã lẫn vào cỏ khác nằm ngoài bờ
sông sau một ngày khá nắng và nóng.
Nhưng hương
vị vẫn còn nhẹ nhàng êm ả kéo dài chứ không ồ ạt như lúc nãy. Tôi hối hận đã
không xem cây cúc ra làm sao. Mùa mưa đến hạt cúc có nẩy mầm không? Mà cây cúc
có hạt hay không? Có thể trồng cúc thành luống như cải không? Được chứ khi bánh
cúc trở thành món ăn nhiều người ưu thích. Có thể trồng cúc như trồng lúa trồng
hành.
Tuy thế tôi vẫn
áy náy lo ngại, cây cúc có hạt hay không? Rồi đây khi mưa đến, có còn sót một
chút gì của cúc để nẩy sinh cây cúc? Rồi từ đó nẩy sinh tất cả; nẩy sinh cái
anh học trò lẩm cẩm thắc mắc bên bờ sông, nẩy sinh một cô bé tên Cúc gọi ở nhà
mà đi học tên khác; nẩy sinh hương vị nhẹ nhàng, cái bánh cúc dưới làn xôi dẻo,
thơm thơm và vương vấn mùi hành; nẩy sinh một buổi chiều, nẩy sinh một buổi mai
ngớ ngẫn.
Tôi bóp chặt cuốn
sách với tất cả sức lực. Lớp giấy cong lên như kinh giật. Chữ nghĩa đã rơi rụng
tất cả như hạt cúc mầm hoa rơi rụng vào đất mà tôi hy vọng nẩy sinh tất cả như
vừa nói trên. Bài Việt ngữ đã thi xong tuần qua. Tôi thầm nghĩ nếu giáo sư Pháp
văn cho một đề tài liên quan đến hoa cúc, có lẽ tôi sẽ đứng đầu về ý tưởng
trong bài luận tuy vốn liến sinh ngữ không là bao.
Sáng hôm ấy tôi
ngồi dưới cây ngọc lan tươi mát và vòng tay làm bài luận về cây cúc mà giám khảo
không ai ngoài cô tên Cúc cho tôi cái bánh cúc thơm thơm ngày qua. Bài luận dưới
gốc cây ngọc lan:
Khởi đầu tôi nhắc
lại các thắc mắc nêu trên rồi tả tình tả cảnh đôi chút như thầy đã dạy cách làm
luận. Sau đó tôi đặt câu hỏi: Cúc dại là gì? Lẩm cẩm viết lách trong vòng tay học
trò như thế nầy.
Tế Hanh, nhà thơ
Quảng Ngãi trong một bài thơ về quê hương, có câu: Dọc đường hoa dại ngát
hương lây. Hoa dại ai cũng biết là hoa mọc lên nhờ mưa nắng của trời đất chứ
không ai vun trồng tưới tắm. Nó tự nhiên kết tụ hơi sương và nhạc gió, e ấp thẹn
thùng bên bước chân người đi, uốn mình như thục nữ chịu thua mà thắng trận. Nó
sợ chậu sành hay khung kiểng như một bức bách kiềm hãm. Cho dù có tàn phai nó
cũng nằm đấy, nơi đã sinh lên chứ không bị người chơi hoa quẳng vào xó khi đã về
chiều. Chỉ ôm lấy hư vô tìm về vĩnh cửu.
Ở lớp dưới năm
trước một giáo sư trích một đoạn trong Trà
Thư mà Khái Hưng dịch từ một tác phẩm Nhật. Tôi đem bài ấy vào bài luận hôm
nay nhất là đoạn: Hoa ơi nếu ta ngắt hoa thì tay ta làm hoa ô uế. Ta chỉ muốn
trông hoa ngoài nội cỏ để dâng lên Đức Phật quá khứ, hiện tại và tương
lai." Mà Phật ở đâu? Hiện tại là đâu? Tương lai là đâu? Đâu cũng là Phật,
đâu cũng là Trời. Trái tim ta là Phật; lòng ta là Trời. Vương Dương Minh nhà
triết học Trung Hoa đã ngồi hằng giờ trầm trồ với cúc dại quên cả thời gian kim
cổ; và quên cả chính mình đang ngắm cây cúc kia; cũng như Trang Chu hóa bướm,
bướm thành Trang Chu.
Bài luận bên gốc
cây chỉ có thế, mấy dòng vớ vẩn kiểu học trò tập viết.
Bẳng đi một thời
gian khá dài; một phần tư thế kỷ với bao đổi thay của đời người, bao đổi thay của
thời cuộc. Với điều tuy không chắc nhưng tin là có thật, với bao nẩy sinh từ
cây cúc như đã nói trên; nẩy sinh một buổi chiều, một buổi sáng ngớ ngẩn...
Trong những đổi thay vừa nêu, có cuộc vượt biên như thế nầy.
Tôi lên xuống
Saigon Rạch Giá đúng mười lần mới đi được. Xe cộ thì vui đi buồn đứng, miên mãi
biết bao giờ đến chỗ, vỏ hư, điện hết với bao thứ như một cơ thể chờ chết. Đây
chuyến xe cuối cùng tôi kể bạn nghe. Sau một đêm ngủ trên một chiếc chiếu thuê,
giải trên nền đất bến xe nóng, tôi thức dậy thật sớm trong hơi nóng chập chờn bền dai, trong lo âu của dự tính, trong nỗi mừng thỏm qua một đêm ở
Cần Thơ không bị ai hỏi ai bắt. Tôi đến bến xe Rạch Giá lấy chuyến đầu tiên về
điểm hẹn.
Xe hư dăm lần bảy
lược. Tôi không dám đi xe chuyền về Rạch Giá vì tiền đã cạn sau chín lần về miền
Tây, mà lần nầy có chắc gì đi được, lấy đâu đi xe về. Tôi đành bám theo cái xe
tắt thở ấy. Giá như nó hư ở trạm thuế thì hành khách còn ngơi nghỉ với chiếc
bánh đa, ly nước ngọt hay tô bún chả giò và cả điếu thuốc lào nữa. Oái ăm nó hư
cách Kênh B hơn cây số. Ai cũng đói nhòa.
Mà đây là vùng
các con kênh ở Cái Sắn, với các khu trù mật cũ của người di cư 54 còn giữ các tập
tục và cách sống ở Bắc, còn giữ nét cần cù kiên nhẫn. Nhờ vài người đi bộ hoặc
xe lôi đến trạm thuế, các người bán hàng rong biết xe hư nên mang hàng đến bán.
Ai cũng đói và cần ăn bậy cái gì cho qua cái nắng chờ đợi nầy. Đi đầu tiên từ
đàng xa là một thiếu phụ mặc áo nâu, trạc tuổi mẹ Cúc ngày nào, đầu đội cái xửng
bằng nhôm trắng chùi sạch. Có lẽ đi bộ quá xa, bà không còn sức rao món hàng. Đến
nơi bà đặt mạnh lên đường gánh nặng đội trên đầu trong nắng.
Hành khách đói sẵn,
chạy lại mở ngay nắp xửng. "Cho tôi gói xôi" nhao nhao quanh thiếu phụ
ấy. Bà đáp: "Không ạ, bánh cúc chứ không phải xôi". Mọi người lại dạt
ra. Tôi chạy lại mua hai bánh cúc, vừa mua vừa giải thích cho hành khách người
Nam thế nào là bánh cúc. Trong phút chốc nồi bánh cúc hết sạch.
Nhưng thật chua
xót cho tôi, đau đớn vô cùng. Đâu phải là mùi hương cúc, mà là một cái gì bầy
nhầy dưới lớp xôi cứng. Tôi thấy ngượng đã quá lời giới thiệu. Hy vọng cơn đói
giữa ngày và giữa đồng trống làm quên đi cái nhạt nhẽo của cái gọi là bánh cúc.
Tôi trách bà bán hàng và bà cũng nhận đây chỉ cải nấu nát, bắc thành bánh cho
có phong vị bên ngoài để nhớ mùi hương cúc thật sự. Tôi thông cảm sự khó
khăn kinh tế và nhất là trong vùng nước mặn nầy tìm đâu ra thứ cúc dại ngàn năm
trong tâm cảm tôi, thứ cúc dại đến với tôi một chiều yên lặng bên con nước
xanh, dòng nước chảy về cô chị xanh mát tên là (sông) Hương.
Đến (trại tỵ nạn) Sikiw, khi thấy vào ban
mai những thau xôi xếp dài bên đường hẹp, những gói xôi trắng gói trong những
ngọn lá bàng xanh, những khi ấy lòng tôi se lại. Buồn và buồn ghê. Tôi không
dám ăn xôi là vậy. Ước gì đó là những chiếc bánh cúc thơm ngọt mùi cúc, bột dẻo, dẻo
dai như lòng tôi với hương cúc ngọt dịu, êm ả như nhụy đậu xanh, tỏa lên mùi
hành thơm ngát. Cái hương cúc ấy làm tôi buồn ghê.-
|
No comments:
Post a Comment